Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức

Vũ Thu

Việc ban hành Nghị định quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) trong cơ quan nhà nước nhằm thể chế hóa các chủ trương của Đảng, bảo đảm sự thống nhất, hiện đại, hiệu quả trong quản lý đội ngũ CBCCVC góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia.

Sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức.
Sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức.

Bộ Nội vụ đang dự thảo Nghị định quy định về Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Theo Bộ Nội vụ, Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) trong cơ quan nhà nước đã được xây dựng, duy trì trong thời gian qua đạt được những kết quả nhất định như hình hành Cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dữ liệu CBCCVC; hình thành các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quản lý CBCCVC tại các cơ quan nhà nước. Kết quả bước đầu cho thấy việc ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số vào công tác quản lý CBCCVC đã được quan tâm, triển khai đồng bộ ở các cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy dữ liệu còn thiếu đồng bộ, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, chất lượng dữ liệu còn hạn chế, có độ trễ trong cập nhật do dữ liệu chưa được thu thập, cập nhật ngay trong quá trình xử lý nghiệp vụ trên hệ thống thông tin điện tử hoặc các hệ thống thông tin, phần mềm chưa đáp ứng yêu cầu xử lý nghiệp vụ; thiếu nền tảng quản lý CBCCVC trong đó có chức năng phân tích, khai thác sử dụng dữ liệu hiệu quả dẫn tới chưa phát huy tốt giá trị của dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước cũng như công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành trong lĩnh vực quản lý CBCCVC; chưa bảo đảm “đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung” như quan điểm chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương tại Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW.

Thực tiễn chuyển đổi số quốc gia thời gian qua đã chỉ rõ một số tồn tại hạn chế trong xây dựng, kết nối chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị như “việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin còn chưa hiệu quả; chưa phát huy giá trị của dữ liệu”; phát triển ứng dụng, cơ sở dữ liệu chưa gắn liền với hoàn thiện thể chế quy định việc cập nhật, khai thác, sử dụng hiệu quả. Đây cũng là một hạn chế trong thực tiễn phát triển, khai thác sử dụng CSDL quốc gia về CBCCVC trong thời gian qua.

Dự thảo Nghị định gồm 6 Chương, 44 Điều và 1 phụ lục quy định về hồ sơ điện tử; xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về CBCCVC và người lao động trong cơ quan nhà nước. Trong đó, đối tượng áp dụng gồm 3 nhóm: Cán bộ, công chức theo quy định tại Điều 1 của Luật Cán bộ, công chức năm 2025; viên chức theo quy định tại Điều 1 của Luật Viên chức năm 2025. Đồng thời, để bảo đảm thống nhất quản lý, Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm cả người lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước; các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước; Quốc hội; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Không áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, người làm việc trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và tổ chức cơ yếu.

Cùng với đó, Dự thảo Nghị định quy định về dữ liệu của Cơ sở dữ liệu quốc gia, trong đó xác định rõ bao gồm dữ liệu về CBCCVC và người lao động (bao gồm các nhóm dữ liệu phản ánh đầy đủ thông tin quy định tại Sơ yếu lý lịch hiện nay), dữ liệu hồ sơ điện tử. Nội dung dự thảo cũng xác định dữ liệu nào là dữ liệu chủ của CSDL quốc gia, dữ liệu nào là dữ liệu tham chiếu và cơ quan quản lý dữ liệu tham chiếu nhằm mục đích kết nối, chia sẻ dữ liệu…