Chỉ số giá CPI được biên soạn theo các hướng dẫn chuẩn quốc tế

Quang Vinh

Tại Việt Nam, CPI được Cục Thống kê (Bộ Tài chính) tính toán và công bố từ năm 1998 dựa trên các hướng dẫn chuẩn quốc tế và dưới sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ tiêu thống kê phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá chung qua thời gian của các loại hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dùng hàng ngày của người dân. Đây là các hàng hóa phục vụ tiêu dùng hàng ngày của người dân không bao gồm giá bán hàng hóa bất hợp pháp như ma túy, hàng hóa chợ đen, giá đất và hàng hóa bán cho sản xuất.

Tại Việt Nam, CPI được Cục Thống kê tính toán và công bố từ năm 1998 dựa trên các hướng dẫn chuẩn quốc tế và dưới sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Phương pháp tính CPI tuân thủ chặt chẽ theo thông lệ thống kê quốc tế để đảm bảo tính so sánh giữa Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới. 

Để biên soạn chỉ tiêu CPI, trước hết, Cục Thống kê xây dựng Danh mục hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng phổ biến của người dân, còn được gọi là “rổ” hàng hóa. Giai đoạn 2020-2025 “rổ” hàng hóa gồm 752 mặt hàng được sắp xếp theo cấu trúc chỉ số, được mô tả chi tiết về quy cách, phẩm cấp, nhãn mác cụ thể.

Căn cứ vào Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện của cả nước, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng danh mục riêng để thu thập giá cho địa phương. Do mỗi địa phương có mức sống và tập quán tiêu dùng khác nhau nên trừ một số mặt hàng phải thống nhất quy cách, phẩm cấp trên phạm vi cả nước đã được đưa ra trong Danh mục chuẩn, những mặt hàng và dịch vụ còn lại được chọn theo đặc điểm tiêu dùng của địa phương. Sau khi xây dựng xong Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện, mỗi địa phương xây dựng một mạng lưới điều tra giá riêng biệt. Mạng lưới điều tra giá bao gồm các khu vực điều tra là các chợ, trung tâm thương mại, các siêu thị bán lẻ... có hoạt động buôn bán, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ để tiến hành điều tra thu thập giá. Số lượng khu vực điều tra căn cứ vào quy mô hành chính, địa lý, dân số của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại mỗi khu vực điều tra có các điểm điều tra là các sạp hàng, quầy hàng, điểm bán hàng chuyên bán lẻ, cơ sở kinh doanh dịch vụ, đơn vị sự nghiệp, trường học, cơ sở khám chữa bệnh…

Việc biên soạn CPI còn đòi hỏi phải xác định cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình tương ứng với các nhóm trong Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện (hay còn gọi là quyền số). Để tính quyền số phục vụ tính chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ 2020-2025, Cục Thống kê đã thực hiện thu thập thông tin tính quyền số chỉ số giá tiêu dùng từ cuộc “Khảo sát mức sống dân cư và Điều tra quyền số chỉ số giá tiêu dùng năm 2018” tại các địa phương trong 4 kỳ điều tra nhằm loại trừ yếu tố mùa vụ. Nội dung của cuộc Khảo sát này nhằm thu thập thông tin chi tiêu của hộ dân cư về các loại hàng hóa và dịch vụ phục vụ cuộc sống hàng ngày của người dân.

Tỷ trọng các nhóm hàng hóa và dịch vụ trong CPI giai đoạn 2020-2025

Nguồn: Cục Thống kê
Nguồn: Cục Thống kê

Công việc tiếp theo để biên soạn chỉ số CPI là hằng tháng, tất cả các địa phương tiến hành thu thập giá các mặt hàng thuộc Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện từ ngày 01 đến ngày 21 hàng tháng với tổng cộng khoảng 40.000 điểm thu thập giá cố định trên cả nước. Đây là hệ thống điều tra giá lớn, phủ rộng và ổn định, đảm bảo dữ liệu thu thập có tính đại diện cao.

Toàn bộ quá trình điều tra giá tiêu dùng được ngành Thống kê thực hiện bằng thiết bị điện tử CAPI tại tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giúp nâng cao chất lượng và minh bạch số liệu, rút ngắn thời gian xử lý và từng bước hội nhập với chuẩn thống kê quốc tế.

Định kỳ 5 năm một lần, Cục Thống kê sẽ tiến hành chuyển đổi năm gốc, rà soát cập nhật danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện, cập nhật mạng lưới điều tra, quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng. Năm 2025, Cục Thống kê sẽ thực hiện chuyển đổi từ năm gốc 2019 sang năm gốc 2024.

Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, tại Việt Nam, CPI được công bố hàng tháng theo các gốc so sánh khác nhau. Mỗi gốc so sánh có ý nghĩa và phản ánh sự biến động giá tiêu dùng theo các góc độ khác nhau và đáp ứng nhiều mục đích sử dụng thống kê. Các gốc so sánh chủ yếu bao gồm:

Một là, so với năm gốc cố định: Chỉ tiêu này phản ánh xu hướng và mức độ trượt giá trong thời gian dài, phục vụ nghiên cứu biến động giá qua nhiều năm. Đây là thước đo quan trọng để đánh giá sự thay đổi mặt bằng giá qua các chu kỳ kinh tế.

Hai là, so với cùng kỳ năm trước: Phản ánh mức độ biến động giá sau một năm. Từ chuỗi số liệu CPI tháng so với cùng kỳ năm trước, cơ quan thống kê có thể tính được CPI bình quân theo từng quãng thời gian trong năm như theo quý hoặc theo 2, 4, 5, 6, 7 tháng…, cũng như CPI bình quân cả năm so với năm trước.

Ba là, so với tháng 12 năm trước: Phản ánh mức độ trượt giá lũy kế từng tháng trong năm, giúp đánh giá xu hướng biến động giá qua từng tháng trong năm một cách liên tục.

Bốn là, so với tháng trước: Phản ánh biến động giá trong ngắn hạn, cho thấy thị trường trong tháng biến động hay ổn định. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá các cú sốc giá, yếu tố mùa vụ hoặc các tác động chính sách tức thời.

Cuối cùng là so với bình quân cùng kỳ năm trước: Phản ánh mức độ biến động giá bình quân của các tháng trong năm hiện hành so với bình quân các tháng của năm trước. Chỉ tiêu này giúp đánh giá xu hướng giá trong cả năm nhưng ở góc độ bình quân, ít chịu biến động theo tháng.

Theo thông lệ quốc tế, các nước đều sử dụng CPI bình quân năm so với năm trước làm thước đo lạm phát cả năm của nền kinh tế và điều hành các chính sách tiền tệ, lãi suất, tiền lương.

Có thể nói, CPI là chỉ tiêu quan trọng phản ánh mặt bằng giá cả của nền kinh tế, có tác động trực tiếp đến đời sống người dân và công tác điều hành của Nhà nước. Việc đo lường CPI theo chuẩn mực thống kê quốc tế, trên cơ sở dữ liệu đầy đủ và minh bạch, góp phần quan trọng vào việc đánh giá đúng diễn biến thị trường, kiểm soát lạm phát và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.