ASEAN trước bài toán thuế quan theo ngành của Mỹ
Chưa kịp mừng khi đàm phán thành công thỏa thuận cho phép giảm thuế đối ứng của Mỹ, các chính phủ Đông Nam Á lại phải đối mặt với một loạt khó khăn mới - thuế đối với dược phẩm, gỗ và tủ bếp. Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố những loại thuế mới này cho thấy cỗ máy thuế quan của ông chưa dừng lại. Hơn cả mục tiêu kinh tế, Tổng thống Mỹ đang tìm kiếm “chủ nghĩa tự cung tự cấp”.

Cuối tháng 9 vừa qua, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố các mức thuế mới áp dụng cho một số lĩnh vực cụ thể, bao gồm mức thuế 100% đối với dược phẩm được cấp bằng sáng chế và 25% đối với tất cả xe tải hạng nặng. Vài ngày sau, một loạt mức thuế tiếp theo được áp dụng - lần này là đối với gỗ nhập khẩu, gỗ xẻ và các sản phẩm phái sinh như tủ bếp.
Thuế theo ngành - hình thái mới của thuế quan
Giữa những cảnh báo về việc áp thuế nhập khẩu chất bán dẫn, chính sách thuế mới nhất này như một đòn giáng mạnh vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Chỉ vài giờ trước thông báo ngày 25/9, các bộ trưởng kinh tế của khối đã gặp Đại diện Thương mại Mỹ Jamieson Greer tại Kuala Lumpur để kêu gọi giảm thuế quan trên diện rộng. Tuy nhiên, ông đã từ chối.
Một mặt, ông nói rằng Mỹ và ASEAN vẫn đang "trong quá trình đàm phán các thỏa thuận" - nhưng ông cảnh báo rằng nếu các cuộc đàm phán thất bại, thì "thuế quan chính là giải pháp". Đặc phái viên thương mại của Washington cũng tuyên bố rằng "chúng ta phải đưa chuỗi cung ứng trở lại Mỹ", nhấn mạnh an ninh quốc gia là mối quan tâm chính.
Bình luận của ông Greer đặc biệt đề cập đến chất bán dẫn, nhưng chính quyền Donald Trump khó có thể dừng lại ở đó. Khi công bố mức thuế gỗ, Nhà Trắng đã cảnh báo về việc phụ thuộc quá mức vào gỗ nhập khẩu, tất nhiên cũng với lý do an ninh quốc gia.
Thật khó để hình dung an ninh quốc gia có thể áp dụng như thế nào cho tủ bếp và đồ nội thất, nhưng thông điệp thì không thể nhầm lẫn. Sẽ không có giải pháp cùng có lợi nào nếu ranh giới đỏ giữa “an ninh quốc gia” và “tự cung tự cấp” bị vạch ra một cách mù mờ.
Đây là một bước leo thang trong cuộc chiến thương mại của Chính quyền Tổng thống Donald Trump, và là một lời cảnh báo mà các chính phủ Đông Nam Á phải lưu ý. Thuế quan theo ngành chỉ ra hai diễn biến đáng lo ngại.
Chiến lược để giành chiến thắng
Đầu tiên, rõ ràng là Tổng thống Donald Trump tin rằng thuế quan của mình đã thành công. Xét cho cùng, nếu mục tiêu chính của ông là buộc các nước ngồi vào bàn đàm phán, thì sự hiện diện của rất nhiều phái đoàn thương mại từ bốn phương trời tụ lại tại Washington trong vài tháng qua rõ ràng đã chứng minh những nỗ lực của ông là đúng đắn. Ít nhất, những lo ngại về một cuộc chiến thương mại toàn cầu đã được chứng minh là không có cơ sở bởi hầu hết các đối tác thương mại của Mỹ đều tỏ ra thờ ơ.
Thay vào đó, các chính phủ cho rằng Tổng thống Trump sẽ chấp nhận một thỏa thuận giải quyết được ít nhất hai mục tiêu khác của ông: cân bằng thâm hụt thương mại, đạt mức cao kỷ lục 1,2 nghìn tỷ USD vào năm 2024, và phục hồi ngành sản xuất của Mỹ bằng đầu tư nước ngoài.
Chỉ riêng tại Đông Nam Á, các chính phủ đã đặt hàng máy bay Boeing, khí đốt tự nhiên và các sản phẩm khác của Mỹ trị giá hàng tỷ đô la, đồng thời cam kết đầu tư thêm hàng tỷ đô la vào ngành sản xuất của Mỹ.
Ông cũng muốn tăng thu ngân sách chính phủ để bù đắp khoản thâm hụt sau hàng loạt đợt cắt giảm thuế. Bộ trưởng Thương mại Mỹ cho biết vào tháng 8 rằng Mỹ dự kiến sẽ thu được ít nhất 50 tỷ USD mỗi tháng từ thuế quan.
Rõ ràng là Tổng thống Donald Trump có kế hoạch tiếp tục sử dụng các mức thuế quan này, cho dù là như một công cụ cưỡng chế kinh tế hay một đòn bẩy để gây sức ép về đối ngoại như ông từng sử dụng trong căng thẳng giữa Campuchia và Thái Lan.
An ninh quốc gia hay chủ nghĩa tự cung tự cấp
Thứ hai, mặc dù nhu cầu an ninh quốc gia đã được nêu bật trong các tuyên bố của Nhà Trắng kể từ khi tuyên bố ngày 2/4 - ngày áp đặt thuế quan là “Ngày Giải phóng”, nhưng chúng thường mang tính khái quát và có thể diễn giải theo nhiều cách khác nhau.
Theo “quy tắc vàng” của Ngày Giải phóng, Nhà Trắng muốn các nước khác “đối xử với chúng tôi như chúng tôi đối xử với các bạn”. Bất chấp việc cách tính thuế quan được gọi là “có đi có lại” không phản ánh được tính “có đi có lại” khi các quốc gia có hiệp định thương mại tự do vẫn bị áp thuế. Nó vẫn gợi ý rằng việc thỏa hiệp lẫn nhau là khả thi.
Tuy nhiên, với các mức thuế quan theo ngành gần đây, câu chuyện đã chuyển hướng sang một mục tiêu đáng báo động hơn về chủ nghĩa tự cung tự cấp. Việc đan xen an ninh quốc gia với niềm tin về khả năng tự cung tự cấp này tạo ra một cách tiếp cận thương mại tổng bằng không, trong đó bất kỳ hình thức phụ thuộc nhập khẩu nào cũng có thể bị coi là một điểm yếu về an ninh.
Mục tiêu phục hồi ngành sản xuất của Mỹ và cân bằng thâm hụt thương mại vẫn còn phù hợp, nhưng không xem xét đến việc các nền kinh tế ngoài Mỹ có thể hưởng lợi như thế nào theo cách tiếp cận tổng dương.
Phải thừa nhận rằng hoàn toàn có khả năng ông Trump đưa ra các miễn trừ nếu có quốc gia nào trao cho ông một lời đề nghị hấp dẫn. Tuy nhiên, với hàng tỷ đô la đã được cam kết trong các thỏa thuận mua bán và đầu tư, không rõ các chính phủ Đông Nam Á có thể phải nhượng bộ thêm bao nhiêu hoặc còn gì để trao cho Washington?
Tác động khác nhau trên khắp Đông Nam Á
Hiện tại, tác động của thuế quan theo ngành đối với các nước Đông Nam Á sẽ không giống nhau. Tuần trước, có thông tin Nhà Trắng đã tạm dừng kế hoạch áp thuế dược phẩm, chỉ ra các cuộc đàm phán đang diễn ra với các tập đoàn dược phẩm lớn như Pfizer. Các công ty này có thể được hoãn thuế trong vài năm, mặc dù các quốc gia như Singapore vẫn có thể phải đối mặt với rủi ro lớn hơn trong trung hạn do xuất khẩu các sản phẩm được cấp bằng sáng chế và có thương hiệu.
Mối quan ngại trước mắt sẽ là các nhà sản xuất đồ nội thất nhỏ ở các quốc gia như Malaysia và Campuchia, những nơi không có đủ nguồn lực để chuyển hoạt động sản xuất sang Mỹ.
Nói rộng hơn, các chính phủ Đông Nam Á đang phải đối mặt với một tình thế khó xử không đáng mong đợi: Biện pháp chính của họ để chống lại mức thuế quan theo ngành cao hơn là tiếp tục hợp tác với Washington để cố gắng đảm bảo các miễn trừ, nhưng làm như vậy sẽ củng cố niềm tin của Washington rằng thuế quan có hiệu quả và khuyến khích việc tiếp tục sử dụng chúng.
Sự thật khó chịu là gần như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục hợp tác với Washington trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về trung hạn, các chính phủ đang tạo ra các mạng lưới thương mại giúp giảm thiểu rủi ro bị Mỹ ép buộc phá vỡ vòng luẩn quẩn này.
Ví dụ, Indonesia gần đây đã ký kết các hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu và Canada, trong khi Việt Nam đang tìm hiểu hợp tác kinh tế với khối MERCOSUR Nam Mỹ. Singapore cũng đã thiết lập Đối tác Tương lai đầu tư và thương mại (FIT) với 13 quốc gia khác, bao gồm Chile và Rwanda.
Nếu Washington thực sự muốn trở lại thời kỳ bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp, các chính phủ hoàn toàn có thể đáp ứng mong muốn của họ trong trung và dài hạn và tìm kiếm thị trường khác cho hàng hóa của mình. Suy cho cùng, "hãy đối xử với chúng tôi như chúng tôi đối xử với bạn", chính là lời mà Mỹ đã nói.