Xây dựng và thúc đẩy thực thi mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu
Theo dự thảo cập nhật lần thứ ba Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC 3.0) của Việt Nam cho giai đoạn 2026 - 2035 do Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng, ước tính đến năm 2050, thiệt hại kinh tế của Việt Nam có thể lên tới 12% - 14,5% GDP/năm nếu không có biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.

Cam kết thực hiện Thỏa thuận Paris
Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu (BĐKH) được thông qua tại Hội nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP21) là văn bản pháp lý toàn cầu quy định trách của tất cả các bên trong ứng phó với BĐKH.
Trong đó, đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) là trụ cột của Thỏa thuận Paris, thể hiện đóng góp của các quốc gia trong nỗ lực hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu và hướng tới phát thải ròng bằng “0”.
Tính đến hết tháng 10/2025, đã có 66 quốc gia gửi NDC 3.0 tới Ban thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC).
Điểm mới trong các NDC là hầu hết đều tích hợp các mục tiêu phát triển kinh tế trong cam kết giảm phát thải khí nhà kính đến năm 2035, nhằm tăng tính khả thi cho hoạt động triển khai sau này.
Do số lượng NDC nộp mới chỉ chiếm khoảng 1/3 trong tổng số hơn 190 nước tham gia Thỏa thuận Paris, mục tiêu giảm phát thải trước mắt chưa thể hiện đầy đủ rằng liệu thế giới có đạt được mức cần thiết để giới hạn sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5 độ C.
Trước thềm COP30, Liên hợp quốc liên tục hối thúc các quốc gia đưa ra mục tiêu giảm phát thải cao hơn cùng các hành động mạnh mẽ hơn.
Về thích ứng biến đổi khí hậu, phần lớn các nước đã gửi NDC tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như an ninh lương thực và dinh dưỡng, tài nguyên nước, y tế và hệ sinh thái.
Trong đó, số lượng NDC đề cập đến tổn thất và thiệt hại (L&D) tăng hơn so với lần cập nhật trước đây, bao gồm chỉ rõ các rủi ro do BĐKH, tác động và các biện pháp thích ứng.
Việt Nam xây dựng mục tiêu cho giai đoạn 2026-2035
Thực hiện trách nhiệm là quốc gia thành viên Thỏa thuận Paris, năm 2025, Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện dự thảo NDC3.0. Việc rà soát, cập nhật NDC được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì.
Các bộ, ngành, chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức phi chính phủ, cơ quan nghiên cứu và các đối tác phát triển đã tham gia tích cực thông qua nhiều đợt làm việc tập trung, tham vấn các cấp.
Ông Tăng Thế Cường - Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, trong bối cảnh ứng phó với BĐKH toàn cầu còn phải đối mặt với nhiều thách thức nhất là về nguồn lực hỗ trợ cho các nước đang phát triển, việc xây dựng NDC3.0 của Việt Nam được tính toán cụ thể, bài bản và đảm bảo tính khả thi khi triển khai thực hiện.
Các nhóm chuyên gia đã tiến hành đánh giá tiến độ thực hiện NDC năm 2022, xác định kịch bản phát triển thông thường (BAU) và các mục tiêu giảm phát thải giai đoạn 2026-2035 cho từng lĩnh vực: Năng lượng, sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF), chất thải, các quy trình công nghiệp (IPPU). NDC cũng sẽ đưa ra nhu cầu vốn đầu tư tăng thêm để thực hiện các biện pháp giảm phát thải cụ thể.
Đơn cử như: Lĩnh vực năng lượng có mục tiêu lớn nhất và ước tính cần khoảng 73,7 tỷ USD cho giai đoạn 2026-2030 và 105,7 tỷ USD cho giai đoạn 2031-2035.
Nội dung NDC cũng thể hiện những nỗ lực của Việt Nam trong xây dựng chính sách pháp luật, nhằm hiện thực hóa các quy định của Thỏa thuận Paris và các cam kết quốc tế.
Trong đó, tiêu biểu là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-zôn (2022, sửa đổi bổ sung 2025); Chiến lược quốc gia về BĐKH đến năm 2050; Đề án triển khai kết quả COP26...
Về thích ứng BĐKH, NDC thể hiện các nỗ lực thích ứng của Việt Nam thời gian qua, với đánh giá cụ thể cả về mặt thành quả và những thiếu hụt. Các vấn đề trọng tâm bao gồm: Sử dụng hiệu quả và ngăn chặn tình trạng suy giảm, suy thoái tài nguyên nước, tài nguyên đất; Phát triển nông nghiệp thông minh, thích ứng với BĐKH; Quản lý bảo vệ rừng và các hệ sinh thái; Phát triển hạ tầng thích ứng với BĐKH;
Tăng cường hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe; Bảo đảm an sinh xã hội và bình đẳng giới; dự báo và cảnh báo sớm; Xây dựng, nâng cấp công trình phòng chống thiên tai; Bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản người dân, triển khai các giải pháp nhằm giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do BĐKH.
Ngoài ra, các vấn đề trọng tâm khác cũng được quan tâm, triển khai như: Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về thích ứng; Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng; Phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, huy động nguồn lực tài chính, đầu tư cho thích ứng; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Trong hợp phần thích ứng sẽ lồng ghép đánh giá tổn thất, thiệt hại do BĐKH tại Việt Nam. Những tác động chính bao gồm; nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán, mưa lớn gây ngập lụt đô thị và nông thôn, bão, sóng lớn, triều cường, sạt lở, mưa lớn gây lũ quét, sạt lở đất.
Cùng với các ví dụ cụ thể về mức độ thiệt hại trong nhiều năm qua, Việt Nam đưa ra dự tính tổn thất, thiệt hại đến năm 2050 về kinh tế, sản xuất nông nghiệp và thủy sản, năng lượng, công nghiệp và thương mại, hạ tầng, thu nhập của người lao động.
Theo kịch bản, nếu nhiệt độ toàn cầu tăng 1,5 độ C, GDP của Việt Nam sẽ giảm 4,5% và giảm tới 6,7% nếu tăng 2°C. Đến năm 2050, thiệt hại kinh tế vĩ mô có thể lên tới 12-14,5% GDP/năm nếu nước ta không thực hiện các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu.
Cục Biến đổi khí hậu cho biết, NDC 3.0 được xây dựng dựa trên các số liệu chính thống, kinh nghiệm quốc tế và nghiên cứu chuyên sâu.
Là cam kết cao nhất của quốc gia và mang tính ràng buộc quốc tế, NDC chỉ bao gồm các nội dung phù hợp, chắc chắn và có tính khả thi về kỹ thuật, tài chính. Đây sẽ là nền tảng quan trọng để Việt Nam đóng góp hiệu quả vào nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu trong giai đoạn tới.















