Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số, miền núi với các vùng khác


Trong tiến trình phát triển đất nước, việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi với các khu vực khác luôn được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng tâm, vừa mang ý nghĩa kinh tế - xã hội, vừa có giá trị chính trị và nhân văn sâu sắc.

Khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi so cả nước đang dần thu hẹp
Khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi so cả nước đang dần thu hẹp

“Chìa khóa” mở cánh cửa phát triển

Vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên và 1/3 dân số cả nước, trong đó có hơn 14 triệu đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là vùng có vị trí chiến lược, quan trọng của quốc gia về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và bảo vệ môi trường sinh thái.

Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện tồn tại 5 nhất, đó là: “điều kiện tự nhiên khó khăn nhất; kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất; tỷ lệ hộ nghèo cao nhất; chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất”.

Trước tình hình trên, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và bố trí nhiều nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, làm thay đổi diện mạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa các dân tộc”.

Bộ Chính trị cũng đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW khóa IX, trong đó nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc theo hướng tích hợp, lồng ghép, có trọng tâm, trọng điểm.

Đặc biệt, Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021. Mục tiêu của Chương trình nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng bền vững, gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội; nâng cao thu nhập cho người dân, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và miền xuôi, giữa đồng bào dân tộc thiểu số và đa số…

Trong 4 năm qua, Trung ương đã phân bổ hơn 66 nghìn tỷ đồng; trong đó, phân bổ cho các địa phương gần 63 nghìn tỷ đồng. Các địa phương đã sử dụng nguồn vốn này để triển khai các dự án, tiểu dự án và nội dung chính sách thành phần cho phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Nguồn lực, chính sách của chương trình đã và đang tập trung đầu tư phát triển các công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ dân sinh, như: kết nối đường giao thông, các công trình tưới tiêu phục vụ sản xuất, các công trình tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, sinh hoạt văn hóa... Công tác đào tạo nghề, hỗ trợ chuyển đổi nghề đã góp phần giải quyết việc làm ổn định cho một lực lượng lao động lớn ở các địa phương.

Thông qua đầu tư, hỗ trợ phát triển sản xuất và sinh kế, người dân được tiếp cận các mô hình sản xuất tiên tiến, năng suất cao, theo chuỗi giá trị, góp phần nâng cao thu nhập; công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc được quan tâm.

Bước chuyển mình mạnh mẽ

Những nỗ lực không ngừng trong việc ban hành và triển khai các chính sách đặc thù đã từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thu hẹp khoảng cách với các vùng khác, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững, đồng thời góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số do Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo) và Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính) thực hiện trong năm 2024 cho biết, đã có 25/52 tỉnh, thành phố đạt chỉ tiêu tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số mỗi năm giảm trên 3%; 5/52 tỉnh, thành phố đạt mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng trên 2 lần so năm 2020; 31/52 tỉnh, thành phố đạt 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê-tông; 38/52 tỉnh, thành phố đạt trên 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 18/52 tỉnh, thành phố đạt 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 27/52 tỉnh, thành phố đạt và vượt 99% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 29/52 tỉnh, thành phố đạt và vượt 90% đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 25/52 tỉnh, thành phố đạt 100% đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh…

Năm 2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế các tỉnh vùng dân tộc thiểu số và miền núi khá cao, trong đó các tỉnh vùng Tây Bắc tăng bình quân 8,0%/năm, Tây Nguyên tăng bình quân 7,5%/năm, Tây Nam Bộ tăng bình quân 7,0%/năm.

Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch, sinh kế của đồng bào dân tộc ngày càng đa dạng, phong phú. Số hộ nghèo giảm nhanh, 25/52 tỉnh thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có tỷ lệ giảm nghèo bình quân trên 3%/năm, vượt mục tiêu đề ra tại Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2030.

Cũng theo Ủy ban Dân tộc, đến hết năm 2024, 100% xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có hạ tầng viễn thông và được phủ sóng di động, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của người dân; 98,4% xã có đường ô tô đến trung tâm; 96,7% hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia; trên 90% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình. 100% xã đã có trường lớp mầm non, trường tiểu học và trung học cơ sở. 99,3% xã có trạm y tế với 83,5% trạm y tế xã đạt chuẩn; 69,1% trạm y tế có bác sĩ, y tá khám chữa bệnh cho người dân…

Trong bối cảnh nước ta thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính từ ngày 01/7/2025, điều kiện kinh tế - xã hội, địa giới hành chính đã có nhiều thay đổi, giảm xuống còn 34 tỉnh, thành, đồng thời bộ máy cấp chính quyền còn 2 cấp là cấp tỉnh và cấp xã đặt ra yêu cầu cần rà soát và điều chỉnh, bổ sung nội dung tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là các nhiệm vụ mà cấp huyện trước đây đảm nhiệm để tiếp tục triển khai, không gây gián đoạn.

Tiếp tục tăng cường nguồn lực đầu tư, hỗ trợ phù hợp với đặc thù vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số. Sự linh hoạt trong điều hành và phối hợp đồng bộ giữa các cấp sẽ giúp mở cánh cửa phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong tương lai.