Nguồn lực ưu tiên cho mục tiêu giảm nghèo bền vững
Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh còn 1,93% năm 2024 và hướng tới khoảng 1% năm 2025, cho thấy hiệu quả chính sách, nhưng nhiều địa phương vùng sâu còn nguy cơ tái nghèo.

Theo ông Phạm Hồng Đào - Phó Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 5,2% xuống 1,93%; bình quân mỗi năm, tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giảm trên 3%.
Dự kiến đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều còn khoảng 0,9-1,1% và tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn 12,55%. Các chỉ tiêu đều đạt và vượt mục tiêu Quốc hội và Chính phủ giao, thể hiện hiệu quả của định hướng chính sách và quản trị nguồn lực.
Để tạo nền tảng cho kết quả này, Đảng và Nhà nước đã ưu tiên bố trí nguồn lực đáng kể cho công tác giảm nghèo. Riêng Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 có tổng kinh phí 75.000 tỷ đồng, bao gồm 48.000 tỷ đồng từ ngân sách trung ương, khoảng 12.000 tỷ đồng vốn đối ứng của địa phương và các nguồn xã hội hóa. Chương trình tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tại vùng lõi nghèo, hỗ trợ đối tượng yếu thế, đồng thời ngăn ngừa tái nghèo.
Từ tỷ lệ hộ nghèo khoảng 58% năm 1998, con số này giảm còn 1,93% cuối năm 2024 và dự kiến còn khoảng 1% vào cuối năm 2025 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2025. Việt Nam cũng là quốc gia đầu tiên tại châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, gắn mục tiêu bảo đảm mức sống tối thiểu với phát triển bền vững.
Nguồn lực ngân sách và chính sách hỗ trợ đã giúp cải thiện đáng kể hạ tầng thiết yếu tại các địa bàn khó khăn, đặc biệt là hệ thống điện, đường, trường, trạm. Hơn 10.500 mô hình và dự án giảm nghèo được triển khai, mở rộng sinh kế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nhiều địa phương nghèo. Những kết quả này góp phần nâng cao năng lực tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản và tăng cường khả năng tự chủ kinh tế của người dân.
Tuy nhiên, theo đánh giá của cơ quan chức năng, công tác giảm nghèo vẫn đối mặt thách thức tại một số vùng khó khăn như trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên.
Tại đây, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhiều nơi trên 50%, thậm chí trên 70%, nguy cơ tái nghèo lớn do điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, thiếu hạ tầng thiết yếu, dịch vụ y tế – giáo dục hạn chế và hạ tầng sản xuất, thương mại, logistics chưa đồng bộ.
Bên cạnh đó, tại một số địa phương, mô hình giảm nghèo chưa đảm bảo tính bền vững, chưa gắn chặt với điều kiện thực tế, văn hóa bản địa và định hướng phát triển dài hạn.
Trong bối cảnh yêu cầu nâng cao chất lượng giảm nghèo bền vững, tái cơ cấu kinh tế vùng khó khăn và tăng cường khả năng chống chịu với rủi ro kinh tế - xã hội, việc hoàn thiện chuẩn nghèo cho giai đoạn 2026-2030 đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp cùng các bộ, ngành xây dựng, bảo đảm phù hợp thực tiễn và xu hướng phát triển mới.

















