Dòng vốn đúng hướng tạo sức bật cho nền kinh tế và doanh nghiệp
Phóng viên: Từ góc độ kinh tế – thương mại, ông nhìn nhận thế nào về khả năng phục hồi và hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp trong những tháng cuối năm 2025?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Với đà tăng trưởng GDP những tháng cuối năm đang ở mức cao, thì GDP quý IV/2025 có thể đạt trên 9%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu có thể vượt 900 tỷ USD…
Tín dụng phải đi đúng hướng, tức là vào khu vực sản xuất – kinh doanh thực, những ngành tạo ra việc làm, giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Vì thế, tín dụng đang có nhiều động lực để tăng trưởng cao hơn. Đó là tổng cầu cuối năm mở rộng từ tiêu dùng nhu cầu mua sắm tăng cao trước nhiều dịp lễ hội; nhu cầu vốn tín dụng để chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, mở rộng quy mô xuất nhập khẩu; sự phát triển mạnh của kinh tế tư nhân với sự thuận lợi, cởi mở của cơ chế, chính sách, môi trường kinh doanh tạo làn sóng thành lập và mở rộng quy mô của các doanh nghiệp; nhu cầu đầu tư bất động sản...
Song hành, các ngân hàng thương mại cũng có những khoản vốn tín dụng lớn để cho vay khách hàng cá nhân và doanh nghiệp tạo điều kiện cho việc hấp thu nhanh chóng nguồn vốn cung ứng. Đây là yếu tố bảo đảm tăng trưởng tín dụng đạt mục tiêu đặt ra, tạo đà tăng trưởng GDP như mong đợi.
Phóng viên: Theo ông, tín dụng nên được định hướng vào những lĩnh vực nào để vừa tạo hiệu ứng lan tỏa cho tăng trưởng, vừa tránh rủi ro đầu cơ?
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Tín dụng phải đi đúng hướng, tức là vào khu vực sản xuất – kinh doanh thực, những ngành tạo ra việc làm, giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Với kết quả tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế quan trọng trong giai đoạn 2021-2025 được xác định rõ trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, có thể thấy các lĩnh vực hoặc nhóm ngành cần ưu tiên dòng vốn là các dự án, doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn chuyển đổi xanh hay còn gọi là tín dụng xanh, với các hợp đồng, dự án đầu tư sản xuất xuất khẩu sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn phân loại xanh, phát thải ròng thấp và đáp ứng tiêu chuẩn kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh đó, dòng vốn nên hướng vào các sản phẩm công nghệ cao, dự án đầu tư nghiên cứu và phát triển hạ tầng số, sản xuất linh kiện, thiết bị phục vụ phát triển công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp hỗ trợ, đầu tư các dự án phát triển năng lượng xanh, năng lượng tái tạo...
Phóng viên: Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia nhiều FTA thế hệ mới, tín dụng nên “chảy” như thế nào để giúp doanh nghiệp tận dụng tốt hơn cơ hội hội nhập, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Tín dụng định hướng theo các FTA sẽ giúp doanh nghiệp không chỉ tận dụng ưu đãi thuế, mà còn nâng cấp năng lực sản xuất, đáp ứng chuẩn quốc tế và mở rộng thị phần xuất khẩu. Vì thế, tín dụng nên gắn sát với từng khu vực thị trường đã được đề cập trong các cam kết.
Chẳng hạn, với đối tác Liên minh châu Âu (EU), tín dụng cần hướng vào các dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị, linh kiện để sản xuất xuất khẩu sang EU. Các mặt hàng được đề cập trong Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) như nhôm, thép, hàng may mặc, giày dép, đồ gỗ và các loại nông sản đã có sẵn thị trường thì cần hỗ trợ nguồn tín dụng phù hợp để vượt qua rào cản kỹ thuật này.
Với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tín dụng cần hướng đến nhu cầu xuất nhập khẩu hàng từ các thị trường này vì triển vọng mở rộng quy mô còn rất lớn.
Ngoài ra, những mặt hàng xuất khẩu cần đáp ứng tiêu chuẩn Đạo hồi (Halal) cũng cần được ưu tiên cấp tín dụng, vì thị trường sản phẩm Halal có triển vọng mở rộng nhanh chóng, tạo sức lan toả rộng và lợi nhuận lớn. Hơn nữa, nhiều thị trường mới nổi tại khu vực châu Phi, châu Mỹ cũng có triển vọng mở rộng nên dòng vốn tín dụng cần tiếp cận hiệu quả và kịp thời.
Phóng viên: Theo ông, các doanh nghiệp cần thay đổi điều gì trong quản trị, phương án kinh doanh hay minh bạch tài chính để tạo niềm tin cho ngân hàng?
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Ngân hàng là tổ chức kinh doanh, nên cũng cần lợi nhuận và bảo đảm an toàn về vốn, giảm thiểu rủi ro, hạn chế thậm chí không làm phát sinh nợ xấu.
Vì thế, để tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp cần đáp ứng những yêu cầu nhất định về phương án kinh doanh, tài sản thế chấp, mô hình quản trị, triển vọng thị trường. Hơn nữa, các doanh nghiệp cần tận dụng các chương trình tín dụng ưu đãi, hoặc có thể tìm một tổ chức bảo lãnh các khoản vay ngân hàng để giảm thiểu rủi ro.
Đồng thời, doanh nghiệp cần có kế hoạch và xa hơn là chiến lược đầu tư, kinh doanh minh bạch, rõ ràng, khả thi, cùng xây dựng văn hoá và đạo đức kinh doanh để tạo dựng uy tín, niềm tin với đối tác, ngân hàng.
Phóng viên: Nhìn sang năm 2026, ông cho rằng chính sách tín dụng nên được điều hành ra sao để vừa hỗ trợ phục hồi tăng trưởng, vừa tránh rủi ro nợ xấu và lệch hướng đầu tư?
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Năm 2026 là năm đầu tiên phấn đấu đạt tăng trưởng GDP 10% và hướng tới mục tiêu đạt tăng trưởng 2 con số vào những năm tiếp theo. Điều này đòi hỏi tăng trưởng tín dụng phải cao hơn năm 2025. Do đó, chính sách tín dụng phải nới lỏng linh hoạt như giảm lãi suất cho vay, tăng nhẹ lãi suất huy động để có nguồn tín dụng dồi dào.
Về phía ngân hàng, cần chú trọng cho vay các dự án đầu tư nghiên cứu và phát triển, đầu tư vào ngành công nghiệp lõi, đổi mới sáng tạo, dự án chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, xuất nhập khẩu quy mô lớn để tăng khả năng sinh lợi cao của dòng vốn.
Đối với các dự án, doanh nghiệp hay sản phẩm, dịch vụ mới, ngân hàng cần coi trọng cung ứng tín dụng trung và dài hạn để bảo đảm sự đồng hành lâu dài giữa hệ thống ngân hàng với doanh nghiệp, bảo đảm vượt qua giai đoạn đầu tư lớn ban đầu để có dòng tiền thu hồi sau đó.
Ngân hàng cũng cần chuẩn bị sẵn sàng và đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, cũng như tăng cường vai trò hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp trong nghiên cứu triển thị trường mới, mở rộng quy mô và phương án phòng ngừa rủi ro, lựa chọn đối tác phù hợp... Đây là quá trình làm tăng sức chống chịu và thúc đẩy sự lớn mạnh của đội ngũ doanh nghiệp, tạo chỗ dựa đáng tin cậy cho ngân hàng và ngược lại.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Tin tức khác
Công đoàn BIDV tổ chức thành công Đại hội đại biểu lần thứ VII, nhiệm kỳ 2025 - 2030
Eximbank kiện toàn lãnh đạo cấp cao với tân nữ Chủ tịch
Thanh toán một chạm tại Metro bằng tài khoản VPBank
Tập đoàn Bảo Việt: 10 năm liên tiếp được vinh danh Top 10 Doanh nghiệp bền vững nhất Việt Nam
BIDV nhận giải Báo cáo thường niên tốt nhất lần thứ 3 liên tiếp
Điều hành chính sách tiền tệ, giữ ổn định thị trường tiền tệ, tỷ giá
AIA Việt Nam và Vinmec hợp tác chiến lược mở rộng hệ sinh thái chăm sóc sức khỏe cao cấp
MultiMedia
VIDEO: Ban Chỉ đạo 389 phát lệnh tổng tấn công buôn lậu, hàng giả dịp Tết Bính Ngọ 2026
INFOGRAPHIC: 6 nhóm hàng xuất khẩu "chục tỷ đô" của doanh nghiệp FDI
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất nâng mức doanh thu miễn thuế lên 500 triệu đồng/năm
INFOGRAPHIC: Chương trình 1719 tại tỉnh Lào Cai: 5 năm bứt phá, chuyển biến toàn diện
INFOGRAPHIC: Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 giai đoạn II (2026–2030): Trao quyền cho địa phương, tạo bứt phá từ vùng lõi nghèo
Khôi phục cấp điện hoàn toàn cho Phú Quốc
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá
Vốn FDI thực hiện 11 tháng đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua
Giữ vững đà tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội
Cần xác định nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng
Vinh danh doanh nghiệp bền vững cùng hành trình CSI bồi đắp nội lực doanh nghiệp Việt
Bộ trưởng Bộ Công Thương giải trình, làm rõ ý kiến đại biểu Quốc hội về chính sách phát triển năng lượng
Khơi thông nguồn lực tư nhân trong lĩnh vực năng lượng
Đơn vị, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước được đăng ký, sử dụng tài khoản tại Kho bạc
Đảm bảo công tác kế toán, thanh toán, quản lý ngân quỹ và hoạt động nghiệp vụ tại Kho bạc Nhà nước khu vực XI
Giải ngân đầu tư công năm 2025 tiếp tục cải thiện, vượt tiến độ cùng kỳ năm trước
Thu ngân sách nhà nước vượt gần 22% dự toán năm
TP. Hồ Chí Minh: Thu ngân sách vượt dự toán trước một tháng
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá
Vốn FDI thực hiện 11 tháng đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua










