Dịch vụ tài chính số - Hỗ trợ vốn cho ngành nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực
Tài chính nông nghiệp cung cấp các các khoản vay hoặc tín dụng để hỗ trợ hoạt động sản xuất nông nghiệp hoặc hoạt động liên quan đến nông nghiệp, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và đảm bảo nguồn cung lương thực. Trong những năm gần đây, việc triển khai dịch vụ tài chính số đã tăng cơ hội tiếp cận tài chính cho nhiều người trước đây chưa có cơ hội, giúp nâng cao mức độ bao phủ tài chính nói chung cũng như giảm chi phí cung cấp.

Dịch vụ tài chính số trong nông nghiệp
Tạo điều kiện để tiếp cận nguồn tài chính tốt hơn là vấn đề quan trọng để vận hành một nền kinh tế hiện đại. Điều này cũng đúng đối với cả khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Hiện có đến 2/3 số người trưởng thành phụ thuộc vào nông nghiệp như một nguồn thu nhập sống trong cảnh nghèo đói, họ thường thiếu các phương tiện để tối đa hóa năng suất và giải quyết các vấn đề hạn chế sản xuất do biến đổi khí hậu (GSMA 2022).
Nông dân, đặc biệt là các hộ nông dân nhỏ, gặp rất nhiều hạn chế trên thị trường tín dụng và khả năng tiếp cận các hình thức dịch vụ tài chính khác. Do đó, dịch vụ tài chính số (DVTCS) xuất hiện là dấu ấn của một nền kinh tế hiện đại.
Trong những năm gần đây, DVTCS đã tăng cơ hội tiếp cận tài chính cho nhiều người trước đây chưa có cơ hội, giúp nâng cao mức độ bao phủ tài chính nói chung cũng như giảm chi phí cung cấp.
Hình thức DVTCS phổ biến nhất là dịch vụ tài chính di động, dựa vào công nghệ điện thoại di động để cung cấp các giao dịch tài chính an toàn, nhanh chóng và không tốn kém như thanh toán và chuyển tiền. Ngoài ra, tính minh bạch của các giao dịch dịch vụ tài chính di động làm giảm gian lận, góp phần vào doanh thu thuế của Chính phủ.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến cuối năm 2024, tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản tại ngân hàng đạt 86,97%, vượt mục tiêu 80% vào năm 2025. Đặc biệt, tính đến hết quý I/2025, có gần 10,4 triệu tài khoản Mobile Money, trong đó hơn 72% thuộc khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.
Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số trong nông nghiệp
Theo dữ liệu Global Findex của Ngân hàng Thế giới, mức độ bao phủ tài chính ngày càng tăng ở các nước đang phát triển và khả năng tiếp cận tài chính cao hơn của các hộ nông dân nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tỷ lệ tiếp cận tài chính toàn diện của người dân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước đang phát triển là 37,9% vào năm 2014, tăng lên 57,1% vào năm 2021. Con số tương ứng đối với nhóm phi nông nghiệp lần lượt là 42,4% và 58,7%.
Những con số này cho thấy người nông dân đã tiếp cận được các dịch vụ tài chính ở mức độ ngang bằng với những người không trực tiếp tham gia vào nông nghiệp trong những năm qua.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp Việt Nam sử dụng một bộ phận lớn dân số trưởng thành, mặc dù tăng trưởng nhưng hầu hết tình trạng nghèo đói còn lại ở Việt Nam lại thuộc về các hộ nông dân sản xuất nhỏ.
Khả năng tiếp cận tài chính ở khu vực nông thôn đã tăng lên cùng với sự tăng trưởng nông nghiệp, nhưng khả năng tiếp cận tài chính chính thức vẫn còn hạn chế đối với nhiều hộ nông dân sản xuất nhỏ.
Hơn nữa, khả năng tiếp cận tài chính chính thức của các hộ nông dân sản xuất nhỏ phần lớn chỉ giới hạn ở các khoản vay từ Ngân hàng Phát triển Nông thôn Việt Nam (VBA) hoặc Ngân hàng Phát triển Nông thôn Việt Nam (VSB). Chỉ tính riêng VBS, luôn duy trì tỷ trọng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn trên 65%/tổng dư nợ và chiếm hơn 36% tổng dư nợ cho vay của toàn ngành trong lĩnh vực này.
Để hỗ trợ nông nghiệp phát triển bền vững, nâng cao thu nhập cho người nông dân, phát triển tài chính toàn diện phục vụ nông nghiệp - nông thôn - nông dân đóng vai trò then chốt.
Ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 149/QĐ-TTg ban hành Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về tài chính toàn diện do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo.
Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính nhằm tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho mọi người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là các nhóm đối tượng yếu thế như phụ nữ, người nghèo, người thu nhập thấp, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo sự phát triển hài hòa, bền vững trên khắp các vùng, miền trong cả nước.
Ngày 7/8/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 805/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, theo đó đến 2025, 100% dân số ở độ tuổi trưởng thành có điện thoại thông minh.
Tuy nhiên, để thuận tiện và rút ngắn thời gian thủ tục tiếp nhận tài chính cần sớm phổ rộng DVTCS, thách thức lớn nhất hiện nay là chênh lệch về hạ tầng công nghệ chưa được phủ rộng khắp vùng nông thôn hẻo lánh, thiết bị thông minh không phổ cập, phần lớn chỉ sử dụng điện thoại để liên lạc và truy cập mạng xã hội, trong khi chưa hiểu đầy đủ về quyền lợi, rủi ro và cách sử dụng các DVTCS một cách an toàn.
Cùng với đó, lỗ hổng về bảo mật thông tin, lừa đảo tài chính trực tuyến ngày càng tinh vi càng khiến nhiều người dân e ngại. Để giải quyết các thách thức còn tồn tại, cần tập trung thực hiện tổng thể, đồng bộ các giải pháp sau:
Tập trung hoàn thiện chính sách và cơ sở hạ tầng để mở rộng phạm vi tiếp cận tới nông dân
Do trình độ giáo dục, hiểu biết về tài chính và hiểu biết về kỹ thuật số còn thấp nên các nông hộ kinh doanh nhỏ khó có thể đánh giá rủi ro khi tham gia sử dụng DVTCS. Trong khi các nhóm có quy mô lớn hơn coi nhận thức và giảm thiểu rủi ro là rào cản đối với việc quảng bá thành công sản phẩm thông qua nhận biết và quản lý rủi ro hoạt để đảm bảo sự kiểm tra và cân bằng trong hệ thống kỹ thuật số.
Thực trạng trên cho thấy, nền tảng chính sách cho việc mở rộng kỹ thuật số cần chú trọng và cân bằng ở 3 khía cạnh chủ yếu:
Thứ nhất, cùng với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và quy định thuận lợi tiếp cận vốn tài chính, cần tổ chức tuyên truyền, đào tạo bài bản và có hệ thống, bao phủ các kỹ năng từ cơ bản như sử dụng điện thoại thông minh đến nhận diện cơ hội cũng như thách thức khi tiếp cận DVTCS;
Thứ hai, tạo điều kiện cho cơ sở hạ tầng tài chính và kỹ thuật số phát triển (như hệ thống thanh toán, cơ sở hạ tầng tín dụng và cơ sở hạ tầng kết nối kỹ thuật số);
Thứ ba, đảm bảo các hệ thống hỗ trợ của chính phủ phụ trợ như nền tảng dữ liệu, nền tảng nhận dạng kỹ thuật số và quản lý tài chính thuận tiện, dễ dàng sử dụng.
Số hóa tài chính nông nghiệp cần được chú trọng hơn
Số hóa các dịch vụ tài chính cho nông dân đồng nghĩa với việc số hóa tài chính vi mô, do đó giúp phát triển các chương trình hỗ trợ nhằm thúc đẩy số hóa tài chính vi mô, tài chính ngân hàng thương mại, tài chính hợp tác xã và nhóm tự lực, những tổ chức mong muốn tiếp cận nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp một cách hiệu quả và toàn diện hơn.
Lưu ý rằng số hóa tài chính vi mô thường không thể đáp ứng được nhiều nhu cầu về dịch vụ tài chính cho một nhóm cụ thể, do đó cần hợp tác với các ngân hàng thương mại có nhiều thanh khoản và mạng lưới rộng khắp ở cả trung tâm thành thị và vùng ven đô.
Chính phủ và các bên liên quan khác có thể hỗ trợ tạo điều kiện cho các quan hệ đối tác này với mục tiêu số hóa hệ sinh thái dịch vụ tài chính nông nghiệp.