Tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2025


Theo Cục Thông kê tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2025 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 7,96% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 8,56% của quý II/2022 trong giai đoạn 2020-2025.

Tổng sản phẩm trong nước 

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2025 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 7,96% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 8,56% của quý II/2022 trong giai đoạn 2020-2025. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,89%, đóng góp 5,19% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,97%, đóng góp 43,63%; khu vực dịch vụ tăng 8,46%, đóng góp 51,18%.

GDP 6 tháng đầu năm 2025 tăng 7,52% so với cùng kỳ năm trước, là mức cao nhất của 6 tháng đầu năm trong giai đoạn 2011-2025. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,84%, đóng góp 5,59%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,33%, đóng góp 42,20%; khu vực dịch vụ tăng 8,14%, đóng góp 52,21%.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành nông nghiệp duy trì tăng trưởng ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2025 tăng 3,51% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 7,42% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,21%, đóng góp 0,10 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp đạt mức tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2025 tăng 8,07% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 8,89% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2020-2025, đóng góp 2,64 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 10,11%, đóng góp 2,55 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,20%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,30%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 4,25%, làm giảm 0,12 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 9,62%, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2025, đóng góp 0,63 điểm phần trăm.

Trong khu vực dịch vụ, hoạt động ngoại thương, vận tải, du lịch tăng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khu vực và thế giới, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm 2025 tăng 8,14% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2025. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 7,03% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,76 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 9,82%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,53%, đóng góp 0,38 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 10,46%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm. Cùng với đó, một số ngành dịch vụ công cũng có mức tăng khá cao để thực hiện nhiều nhiệm vụ đột phá phục vụ cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy của đất nước: hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 14,58%; hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị xã hội, quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng tăng 13,09%.

Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2025, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,96%; khu vực dịch vụ chiếm 43,40%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,36% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2024 là 11,49%; 37,0%; 42,98%; 8,53%).

Về sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2025, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,95% so với cùng kỳ năm 2024, đóng góp 84,20% vào tốc độ tăng chung của toàn nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 7,98%, đóng góp 40,18%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,17%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,01%.

Sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2025 duy trì tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Sản lượng lúa đông xuân tăng so với năm trước; cây ăn quả chủ lực và cây công nghiệp lâu năm tăng cả diện tích và sản lượng so với cùng kỳ. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, giá thịt gia súc, gia cầm ở mức thuận lợi cho người dân mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đàn vật nuôi. Diện tích rừng trồng mới tăng cao, hoạt động khai thác gỗ được đẩy mạnh do nhu cầu xuất khẩu gỗ tăng cao. Hoạt động sản xuất thủy sản đạt kết quả tích cực nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật mới và thời tiết thuận lợi cho khai thác.

Nông nghiệp

Diện tích gieo cấy lúa đông xuân cả nước năm 2025 đạt 2.970,2 nghìn ha, tăng 16,1 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước. Các địa phương phía Bắc đạt 1.050,9 nghìn ha, giảm 8,9 nghìn ha; các địa phương phía Nam đạt 1.919,3 nghìn ha, tăng 25,1 nghìn ha. Năng suất lúa đông xuân cả nước ước đạt 68,5 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng lúa vụ đông xuân năm 2025 ước đạt 20,4 triệu tấn, tăng 17,3 nghìn tấn.

Tính đến ngày 20/6/2025, các địa phương trên cả nước đã xuống giống được 1.773,6 nghìn ha lúa hè thu, bằng 101,8% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.369,4 nghìn ha, bằng 102,0%.

Cũng đến thời điểm trên, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 596,7 nghìn ha ngô, bằng 100,7% cùng kỳ năm trước; 54,3 nghìn ha khoai lang, bằng 96,1%; 12,1 nghìn ha đậu tương, bằng 92,1%; 100,1 nghìn ha lạc, bằng 98,6%; 690,6 nghìn ha rau, đậu, bằng 102,0%.

Sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm 6 tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm trước: chè búp đạt 546,6 nghìn tấn, tăng 2,9%; cao su đạt 427,3 nghìn tấn, tăng 1,9%; hồ tiêu đạt 258,0 nghìn tấn, tăng 6,4%; điều đạt 294,1 nghìn tấn, tăng 0,7%. Sản lượng một số cây ăn quả tăng so với cùng kỳ năm trước: xoài đạt 720,2 nghìn tấn, tăng 9,0%; cam đạt 539,5 nghìn tấn, tăng 2,4%; sầu riêng đạt 534,6 nghìn tấn, tăng 16,3%; mít đạt 462,2 nghìn tấn, tăng 17,3%; dứa đạt 443,0 nghìn tấn, tăng 16,3%; nhãn đạt 211,6 nghìn tấn, tăng 6,8%.

Chăn nuôi trâu, bò trong 6 tháng đầu năm 2025 tiếp tục có xu hướng giảm. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát[13]. Đàn lợn có xu hướng tăng mạnh trở lại do do chăn nuôi nông hộ chuyển mạnh sang bán công nghiệp, liên kết với doanh nghiệp, cùng với đó là giá thịt lợn hơi 6 tháng đầu năm ở mức thuận lợi cho người dân đầu tư mở rộng quy mô sản xuất[14].

Tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2025 - Ảnh 1

Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 153,5 nghìn ha, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 48,6 triệu cây, tăng 2,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 11.181,7 nghìn m3, tăng 9,0%.

Diện tích rừng bị thiệt hại của cả nước 6 tháng đầu năm là 847,8 ha, giảm 27,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích rừng bị chặt, phá là 564,6 ha, tăng 17,3%; diện tích rừng bị cháy là 283,2 ha, giảm 58,6%.

Thủy sản

Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt 4.550,9 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước (quý II/2025 ước đạt 2.555,5 nghìn tấn, tăng 3,3%), bao gồm: cá đạt 3.281,8 nghìn tấn, tăng 2,9%; tôm đạt 605,5 nghìn tấn, tăng 5,6%; thủy sản khác đạt 663,6 nghìn tấn, tăng 2,0%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng đầu năm ước đạt 2.579,2 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: cá đạt 1.749,5 nghìn tấn, tăng 4,7%; tôm đạt 533,5 nghìn tấn, tăng 6,4%; thủy sản khác đạt 296,2 nghìn tấn, tăng 3,0%. Riêng sản lượng cá tra đạt 871,9 nghìn tấn, tăng 4,5%; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 366,9 nghìn tấn, tăng 7,3%; sản lượng tôm sú đạt 125,1 nghìn tấn, tăng 3,6%.

Sản lượng thủy sản khai thác 6 tháng đầu năm ước đạt 1.971,7 nghìn tấn, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm trước (quý II/2025 ước đạt 1.089,9 nghìn tấn, tăng 1,4%), bao gồm: cá đạt 1.532,3 nghìn tấn, tăng 0,9%; tôm đạt 72,0 nghìn tấn, tăng 0,6%; thủy sản khác đạt 367,4 nghìn tấn, tăng 1,2%.

Sản xuất công nghiệp trong quý II/2025 tiếp tục tăng trưởng tích cực, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,3%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp ước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2020 đến nay.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, IIP ước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,0%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,1% (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,9%), đóng góp 9,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,5% (cùng kỳ năm 2024 tăng 12,8%), đóng góp 0,4 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,3% (cùng kỳ năm 2024 tăng 6,4%), đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 3,0% (cùng kỳ năm 2024 giảm 6,0%), làm giảm 0,5 điểm phần trăm.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2025 tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 10,8%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2025 tăng 6,7% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 12,0% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 9,6%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2025 là 85,7% (bình quân cùng kỳ năm 2024 là 76,9%).

Số lượng đăng ký doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2025 tăng cao nhờ “động lực” của Nghị quyết 68. Số doanh nghiệp gia nhập thị trường cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong tháng 6, cả nước có hơn 24,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký gần 176,8 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 137,2 nghìn lao động, tăng 61,4% về số doanh nghiệp, tăng 12,8% về số vốn đăng ký và tăng 39,8% về số lao động so với tháng 5/2025. So với cùng kỳ năm trước, tăng 60,5% về số doanh nghiệp, tăng 21,2% về số vốn đăng ký và tăng 49,9% về số lao động.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, cả nước có 91,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký gần 820,9 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 591,1 nghìn lao động, tăng 11,8% về số doanh nghiệp, tăng 9,9% về số vốn đăng ký và tăng 13,9% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, cả nước có hơn 61,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 57,2% so với cùng kỳ năm 2024), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 6 tháng đầu năm lên hơn 152,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân một tháng có gần 25,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Trong 6 tháng đầu năm nay, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là hơn 80,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; hơn 34,0 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 18,3%; hơn 12,3 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,3%. Bình quân một tháng có gần 21,2 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2025 cho thấy 35,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý I/2025; 43,0% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 21,3% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn[18]. Dự kiến quý III/2025, có 37,3% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý II/2025; 43,5% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 19,2% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.

Hoạt động thương mại, vận tải, du lịch

6 tháng đầu năm nay duy trì tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước; chính sách thị thực thuận lợi, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh cùng với các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn của dân tộc đã thu hút khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng.

Tháng 6 năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước tính tăng 8,3%; vận tải hành khách tăng 23,2% về vận chuyển và tăng 15,5% về luân chuyển; vận tải hàng hóa tăng 15,0% về vận chuyển và tăng 15,1% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; khách quốc tế đến Việt Nam đạt đạt 1,46 triệu lượt người, giảm 4,3% so với tháng trước và tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 3.416,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,9%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,2% (cùng kỳ năm 2024 tăng 6,0%).

Tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2025 - Ảnh 2


Vận tải hành khách 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 2.857,1 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 151,9 tỷ lượt khách.km, tăng 13,5%; trong đó, quý II/2025 ước đạt 1.462,8 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 76,0 tỷ lượt khách.km, tăng 15,1%.

Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 1.438,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 291,3 tỷ tấn.km, tăng 13,4%; trong đó, quý II/2025 ước đạt 730,7 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 150,6 tỷ tấn.km, tăng 16,2%.

Khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm nay đạt gần 10,7 triệu lượt người, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến bằng đường hàng không đạt 9,1 triệu lượt người, chiếm 85,2% lượng khách quốc tế đến và tăng 22,7% so với cùng kỳ năm trước; bằng đường bộ đạt 1,4 triệu lượt người, chiếm 13,1% và tăng 10,9%; bằng đường biển đạt 181,4 nghìn lượt người, chiếm 1,7% và tăng 10,0%.

Số lượt người Việt Nam xuất cảnh 6 tháng đầu năm 2025 đạt 4.062,8 nghìn lượt người, tăng 53,9% so với cùng kỳ năm trước.

Mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay

Mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay duy trì xu hướng giảm, tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; thị trường bảo hiểm tăng trưởng ổn định, thị trường chứng khoán được cải thiện nhờ nền kinh tế dần hồi phục.

Tính đến thời điểm 26/6/2025, tổng phương tiện thanh toán tăng 7,09% so với cuối năm 2024 (cùng thời điểm năm trước tăng 2,48%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 6,11% (cùng thời điểm năm trước tăng 1,82%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 8,30% (cùng thời điểm năm trước tăng 4,85%).

Tổng doanh thu phí bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 114,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: doanh thu phí lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 43,0 nghìn tỷ đồng, tăng 10,8%; lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ước đạt 71,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9%.

Về thị trường chứng khoán, hoạt động giao dịch trên thị trường trong 6 tháng đầu năm 2025 có những biến động, đặc biệt trong nửa đầu tháng 4/2025 khi Hoa Kỳ công bố áp thuế đối ứng tối đa 46% đối với Việt Nam. Chỉ số VN-Index đến cuối quý II/2025 mới được cải thiện nhờ nền kinh tế dần hồi phục.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong 6 tháng đầu năm 2025

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong 6 tháng đầu năm 2025 theo giá hiện hành ước đạt 1.591,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 6,6% cùng kỳ 6 tháng năm 2024, cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh trong nửa đầu năm 2025 tiếp tục xu hướng tích cực ở nhiều ngành, lĩnh vực. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 11,72 tỷ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức cao nhất 6 tháng đầu năm của các năm từ 2021 đến nay.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành 6 tháng đầu năm ước đạt 1.591,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,8% (quý II/2025 theo giá hiện hành ước đạt 921,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5%) so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 445,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,0% tổng vốn và tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 858,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 54,0% và tăng 7,5%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 287,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,0% và tăng 10,6%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/6/2025 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 21,52 tỷ USD, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: 1.988 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 9,29 tỷ USD, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm trước về số dự án và giảm 9,6% về số vốn đăng ký; có 826 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 8,95 tỷ USD, gấp 2,2 lần so với cùng kỳ năm trước; Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.708 lượt với tổng giá trị góp vốn 3,28 tỷ USD, tăng 73,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 705 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 1,3 tỷ USD và 1.003 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,98 tỷ USD.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 11,72 tỷ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước.

Thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2025

Thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2025 tăng 28,3% so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước tăng 38,5%, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 6/2025 ước đạt 176,6 nghìn tỷ đồng, lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2025 đạt 1.332,3 nghìn tỷ đồng, bằng 67,7% dự toán năm và tăng 28,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa đạt 1.158,4 nghìn tỷ đồng, bằng 69,4% dự toán năm và tăng 33,3% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 6/2025 ước đạt 282,6 nghìn tỷ đồng, lũy kế 6 tháng đầu năm 2025 đạt 1.102,1 nghìn tỷ đồng, bằng 43,2% dự toán năm và tăng 38,5% so với cùng kỳ năm trước.

 Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Trong tháng 6, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 76,15 tỷ USD, giảm 3,2% so với tháng trước và tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa  đạt 432,03 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,4%; nhập khẩu tăng 17,9%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 7,63 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 6/2025 đạt 39,49 tỷ USD, giảm 0,3% so với tháng trước. Quý II/2025, kim ngạch xuất khẩu đạt 116,93 tỷ USD, tăng 18,0% so với cùng kỳ năm trước và tăng 13,6% so với quý I/2025. Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 219,83 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 6/2025 đạt 36,66 tỷ USD, giảm 6,1% so với tháng trước. Quý II/2025, kim ngạch nhập khẩu đạt 112,52 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước và tăng 12,9% so với quý I/2025. Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 212,2 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước.

Theo số liệu sơ bộ, cán cân thương mại hàng hóa tháng 6 xuất siêu 2,83 tỷ USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 7,63 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 12,15 tỷ USD).

Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Trong 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 14,79 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước (quý II/2025, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 7,15 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước và giảm 6,3% so với quý trước), trong đó dịch vụ du lịch đạt 7,62 tỷ USD (chiếm 51,5% tổng kim ngạch), tăng 24,7%; dịch vụ vận tải đạt 4,35 tỷ USD (chiếm 29,4%), tăng 31,0%.

Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 19,5 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 6,72 tỷ USD), tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 8,0 tỷ USD (chiếm 40,8% tổng kim ngạch), tăng 18,5%; dịch vụ du lịch đạt 7,3 tỷ USD (chiếm 37,4%), tăng 31,5%. Cán cân thương mại dịch vụ 6 tháng đầu năm 2025 nhập siêu 4,71 tỷ USD.

Chỉ số giá tiêu dùng

Trong mức tăng 0,48% của CPI tháng 6/2025 so với tháng trước, có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, riêng chỉ số giá nhóm bưu chính, viễn thông giảm. CPI bình quân quý II/2025 tăng 3,31% so với quý II/2024. Bình quân 6 tháng đầu năm 2025 CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,16%.

Lạm phát cơ bản[24] tháng 6/2025 tăng 0,31% so với tháng trước và tăng 3,46% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 6 tháng đầu năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,16% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 3,27% của CPI bình quân chung.

Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 6/2025 giảm 1,27% so với tháng 5/2025; tăng 48,01% so với cùng kỳ năm trước; tăng 35,54% so với tháng 12/2024; bình quân quý II/2025 tăng 43,62% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2025, chỉ số giá vàng tăng 37,40%.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2025 tăng 0,32% so với tháng trước do nhu cầu ngoại tệ phục vụ thanh toán nhập khẩu tăng; tăng 3,06% so với cùng kỳ năm trước; tăng 2,92% so với tháng 12/2024; bình quân quý II/2025 tăng 2,98%; bình quân 6 tháng đầu năm 2025 tăng 3,30%.

Theo nso.gov.vn