Tài chính toàn diện và phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam
Hiện nay, tài chính toàn diện đã trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới, bởi tài chính toàn diện được coi là chìa khóa giúp xóa đói giảm nghèo trong xã hội, tạo cơ hội cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp. Bài viết này khát quát về tài chính toàn diện, vai trò của tài chính toàn diện và phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam, từ đó, gợi mở một số giải pháp đề xuất phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Tài chính toàn diện
Cho đến nay, khái niệm về tài chính toàn diện (TCTD) vẫn chưa có được sự thống nhất chung. Theo Ngân hàng Thế giới (2018), TCTD là các cá nhân và doanh nghiệp có quyền truy cập vào các sản phẩm và dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả phải chăng nhằm đáp ứng nhu cầu của họ như: Giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm, đồng thời được cung cấp các dịch vụ này một cách có trách nhiệm và bền vững.
Theo Liên minh TCTD, TCTD là việc cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ tài chính sẵn có với mức chi phí hợp lý; làm cho khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính một cách thường xuyên; đưa ra những dịch vụ tài chính được thiết kế phù hợp với nhu cầu của người sử dụng.
Theo Kumar và Mishra (2011), TCTD là quy trình đảm bảo quyền truy cập vào các dịch vụ tài chính - tín dụng kịp thời, đầy đủ cho những nhóm dễ bị tổn thương như nhóm có thu nhập thấp với chi phí phải chăng. Hannig và Jansen (2010) và García (2016) đều có cho rằng, TCTD là thu hút các cá nhân và các nhóm tổ chức xã hội không sử dụng dịch vụ ngân hàng tham gia vào hệ thống tài chính chính thức, nơi họ có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính bao gồm tín dụng, tiết kiệm, thanh toán, bảo hiểm.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Vân, Hường và Hà (2018) cho thấy, TCTD là quá trình đảm bảo khả năng tiếp cận, tính sẵn sàng và khả năng sử dụng hệ thống tài chính chính thức cho tất cả mọi thành phần kinh tế. Hòa (2021) cho rằng, TCTD là đưa các dịch vụ tài chính chính thức đến với mọi chủ thể trong xã hội, nhất là những cá nhân hoặc tổ chức khó khăn nhất do vấn đề thu nhập hoặc kiến thức về tài chính, với chi phí hợp lý và sự tin tưởng, đảm bảo nhu cầu sử dụng và sẵn sàng sử dụng dịch vụ tài chính của khách hàng, khả năng cung ứng và sẵn sàng cung ứng của các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính. TCTD không chỉ giới hạn trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tài chính mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người sử dụng dịch vụ.
Như vậy, có thể hiểu rằng, TCTD là hệ thống dịch vụ tài chính, tất cả cá nhân và doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính, bất kể tình trạng kinh tế xã hội. TCTD cung cấp các dịch vụ tài chính cho mọi người, đặc biệt người dân có thu nhập thấp và doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ một cách hiệu quả, bền vững và với chi phí phải chăng. TCTD là những nỗ lực để mọi cá nhân và doanh nghiệp có thể sử dụng sản phẩm và dịch vụ tài chính với giá cả phải chăng...
Vai trò của tài chính toàn diện
Vai trò của TCTD thể hiện như sau:
Một là, TCTD góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững thông qua việc tăng cường huy động các nguồn lực, đáp ứng tối đa nhu cầu dịch vụ tài chính của mọi chủ thể trong nền kinh tế: Thiếu khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng thu nhập, nghèo đói và suy giảm tăng trưởng.
TCTD giúp tạo điều kiện cho người tham gia vào nền kinh tế và hệ thống tài chính, từ đó tạo động lực cho khu vực tài chính phát triển hơn và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thông qua huy động nguồn tiết kiệm và đầu tư vào tăng trưởng ở các khu vực có hiệu quả. Các chính sách TCTD hiệu quả sẽ tác động lên các ngành kinh tế, góp phần giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế nhanh. TCTD giúp tất cả mọi chủ thể trong nền kinh tế được tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính (tiết kiệm, tín dụng, thanh toán, bảo hiểm) với việc qua các kênh tiện lợi, chi phí hợp lý, từ đó góp phần gia tăng tiết kiệm, đầu tư từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Hai là, TCTD giúp người nghèo được tiếp cận các dịch vụ tài chính phù hợp với giá cả hợp lý, góp phần tăng thu nhập. Bên cạnh đáp ứng nhu cầu dịch vụ tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế, TCTD nhấn mạnh đến các chủ thể là những người nghèo, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Vấn đề quan trọng đối với người nghèo là thu nhập không chỉ thấp mà còn không ổn định. Khi các nhu cầu tài chính xuất hiện, do các điều kiện tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính hạn chế, họ thường phải tìm đến các dịch vụ tài chính phi chính thức chưa đáng tin cậy, kém an toàn và phải trả chi phí cao. Điều này làm gia tăng gánh nặng chi phí với người nghèo. Do đó, TCTD có vai trò trong giải quyết các vấn đề tồn tại này, giúp tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội...
Thực trạng phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu vay vốn của người dân, doanh nghiệp ngày càng gia tăng đã thúc đẩy quy mô tín dụng ngày càng lớn. Tuy nhiên, thực tiễn còn nhiều khách hàng chưa tiếp cận được với dịch vụ ngân hàng, buộc họ phải tìm đến tài chính phi chính thức hoạt động ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật, còn gọi “tín dụng đen”. Để người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay, thì việc phát triển TCTD có ý nghĩa rất quan trọng.
Xác định rõ điều này, thời gian qua, Chính phủ đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách liên quan đến TCTD quốc gia như: Ngày 30/12/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2545/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020; Ngày 05/9/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1726/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế; Ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược TCTD quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chiến lược đặt mục tiêu mọi người dân và doanh nghiệp đều được tiếp cận và sử dụng an toàn, thuận tiện các sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp lý, do các tổ chức được cấp phép cung ứng một cách có trách nhiệm và bền vững. Phấn đấu đến cuối năm 2025 đạt được: Ít nhất 80% người trưởng thành có tài khoản giao dịch tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác, tiến tới mỗi người trưởng thành có ít nhất một tài khoản giao dịch tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác vào năm 2030; Ít nhất 20 chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại trên 100.000 người trưởng thành; Ít nhất 50% tổng số xã có điểm cung ứng dịch vụ tài chính (chi nhánh, phòng giao dịch của tổ chức tín dụng và đại lý ngân hàng; Ngoại trừ điểm cung ứng dịch vụ tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội); Ít nhất 25%-30% người trưởng thành gửi tiết kiệm tại tổ chức tín dụng; Số lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đạt tốc độ tăng từ 20%-25% hàng năm; Ít nhất 250.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa có dư nợ tại các tổ chức tín dụng; Dư nợ tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn trên tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế đạt 25%; Doanh thu phí bảo hiểm bình quân GDP là 3,5%; Ít nhất 70% người trưởng thành có thông tin về lịch sử tín dụng trong hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Cùng với đó, Chính phủ đã triển khai một số sáng kiến để tăng cường phổ cập dịch vụ tài chính, nhất là thông qua việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, các chương trình tín dụng chính sách cho những đối tượng mục tiêu và khu vực ưu tiên. Các sáng kiến TCTD có đặc điểm chung là tập trung mạnh mẽ vào các đối tượng chính sách xã hội, chưa hoàn toàn áp dụng các cơ chế thị trường. Các ngân hàng thương mại đã nhanh chóng nắm bắt xu hướng và cơ hội phát triển dịch vụ trên nền tảng công nghệ, tăng cường cải thiện và đa dạng hóa các dịch vụ thông qua khuyến khích tài chính điện tử, giao dịch ngân hàng trên internet, triển khai tín dụng lưu động nhằm đưa các dịch vụ, sản phẩm tài chính đến với người dân ở phạm vi rộng lớn hơn, chi phí thấp hơn một cách nhanh chóng, an toàn và tiện lợi.
Hệ thống tài chính của Việt Nam ngày càng được phát triển mạnh mẽ, điển hình là xuất hiện các dịch vụ tài chính mới được áp dụng khoa học, công nghệ 4.0 như thanh toán di động và ngân hàng trực tuyến. Sự phát triển này mang lại nhiều lựa chọn cho người dân và doanh nghiệp, tăng cường tiếp cận và sự linh hoạt trong việc sử dụng các dịch vụ tài chính.
Tính đến hết năm 2023, số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân là hơn 182,88 triệu tài khoản, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2022. Về mở tài khoản qua phương thức eKYC, 40 ngân hàng báo cáo đã triển khai chính thức với gần 35 triệu tài khoản thanh toán mở bằng phương thức này đang hoạt động. Số liệu 4 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm 2023 cũng cho thấy, các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt có mức tăng trưởng khá: Thanh toán không dùng tiền mặt tăng 57,11% về số lượng và 39,49% về giá trị; qua kênh Internet tăng 47,48% về số lượng và 30,20% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 59,26% về số lượng và 35,91% về giá trị. Giao dịch qua ATM tiếp tục giảm 14,15% về số lượng và 7,84% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023, cho thấy xu hướng dịch chuyển từ thanh toán bằng tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp và chính sách hỗ trợ tài chính để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tài chính và khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực tài chính mới, đồng thời cải thiện quy trình và môi trường kinh doanh, từ đó, thúc đẩy quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Tính chung, quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành đạt khoảng 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 tăng 13,9%).
Mặt khác, cơ sở hạ tầng tài chính được đầu tư nâng cấp. Các hệ thống thanh toán quan trọng như hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã chuyển từ mô hình xử lý phân tán về 01 Trung tâm xử lý quốc gia duy nhất, bổ sung thêm các dịch vụ, nâng cấp phần mềm các thành viên để đáp ứng yêu cầu xử lý khối lượng lớn dữ liệu. Hệ thống thanh toán bù trừ tự động phục vụ các giao dịch thanh toán bán lẻ (ACH) được đưa vào vận hành chính thức, qua đó thiết lập hạ tầng thanh toán bán lẻ hiện đại, thanh toán theo thời gian thực, phục vụ nhu cầu chuyển tiền, giao dịch thanh toán bán lẻ, thanh toán các dịch vụ tiện ích. Đồng thời, Bộ Công an đã chính thức vận hành hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư từ ngày 01/7/2021; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về định danh và xác thực điện tử trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, tạo điều kiện cho các bộ, ngành liên quan kết nối, chia sẻ để sử dụng danh tính điện tử, tài khoản định danh điện tử, phục vụ xác minh thông tin khách hàng...
Mặc dù, mức độ bao phủ của hệ thống các tổ chức tài chính ở Việt Nam đã được mở rộng, nhưng tỷ lệ khách hàng cá nhân tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ tài chính hiện còn khiêm tốn so với nhu cầu và tiềm năng phát triển. Mức độ tiếp cận dịch vụ tài chính của Việt Nam còn thấp so với mặt bằng chung của các nước. Các chính sách thúc đẩy TCTD còn phân tán ở nhiều chương trình, dự án khác nhau, các yếu tố hạ tầng đóng vai trò quan trọng cho việc cung cấp dịch vụ tài chính vẫn còn đang được hoàn thiện. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật tài chính chủ yếu tập trung tại các trung tâm, thành phố lớn và chưa vươn đến được vùng khó khăn, lạc hậu...
Thực tế hiện nay, hệ thống thanh toán điện tử của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của người dân khu vực thành thị, khu vực nông thôn vẫn rất thiếu. Độ bao phủ của các điểm cung cấp dịch vụ còn mỏng với chi phí cao. Thanh toán qua thẻ hiện vẫn chiếm tỷ lệ chủ yếu, hình thức thanh toán qua QR Code, ví điện tử còn thấp, trong khi đây đang là xu hướng mới. Muốn đưa dịch vụ đến với mọi người, xoá các vùng trắng dịch vụ như hiện nay thì đòi hỏi một hệ thống chuyển mạch lớn, hiện đại, liên thông được các phương tiện thanh toán mới… như cánh tay nối dài làm cơ sở phát triển và đưa các dịch vụ đến với mọi người.
Theo Ngân hàng Thế giới, sở hữu tài khoản tại các tổ chức tài chính là bước đầu tiên quan trọng đối với TCTD. Việc có tài khoản sẽ là bước tiền đề giúp cho người dân có thể sử dụng vào các dịch vụ khác của tổ chức tài chính. Trong khi đó, tại Việt Nam, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản tại các tổ chức tài chính còn khá khiêm tốn so với thế giới. Đến hết tháng 6/2024, có khoảng 77,41% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng, hơn 35 triệu tài khoản thanh toán và khoảng 14,9 triệu thẻ được mở bằng phương thức điện tử eKYC đang hoạt động. Con số này có sự phát triển vượt bậc so với các năm trước (năm 2011 tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản là 21%, đến năm 2017 là 31%), nhưng so với thế giới là còn rất khiêm tốn. Theo số liệu khảo sát của Global findex, trung bình trên thế giới, trong năm 2011 tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản là 51%, đến năm 2014 số lượng này lên đến 62% và 2017 là 69%, đến đầu năm 2014 là trên 85%...
Một số giải pháp đề xuất
Nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển TCTD đã được Chính phủ đề ra, đồng thời, khắc phục những tồn tại phát sinh, thúc đẩy TCTD phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam cần quan tâm đến các nội dung sau:
Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để thúc đẩy việc phát triển các dịch vụ ngân hàng như: tín dụng, thanh toán, hoạt động bảo lãnh, cung cấp dịch vụ tài chính… nhất là ứng dụng khoa học công nghệ đại như: điện toán đám mây, thiết bị di động, phân tích dữ liệu lớn và mạng xã hội… để tiến tới dịch vụ TCTD. Các quốc gia đang phát triển có hệ thống tài chính chưa được tổ chức tốt và cần được tái cấu trúc, gắn với cải thiện tính toàn vẹn của các định chế tài chính, cùng với khung thể chế minh bạch và đồng bộ sẽ góp phần ổn định tài chính.
Hai là, tiếp tục đổi mới công nghệ trong các dịch vụ tài chính, bao gồm việc áp dụng AI, Blockchain và Big Data để cải thiện trải nghiệm người dùng và tăng cường hiệu quả. Đầu tư vào cải thiện hạ tầng kĩ thuật và mạng lưới thanh toán, đảm bảo tính an toàn và đáng tin cậy của các giao dịch tài chính trực tuyến và di động. Do đó, cần tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng về di động và internet, tạo nền tảng cho sự phát triển số hóa dịch vụ tài chính ngân hàng nói chung và các công ty fintech nói riêng. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, các chính sách miễn, giảm thuế, khuyến khích thu hút đầu tư trong lĩnh vực fintech.
Ba là, xây dựng hệ thống các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính hoạt động an toàn, hiệu quả và có trách nhiệm. Trong đó, phát huy vai trò của các tổ chức tài chính vi mô và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, cùng những loại hình định chế đặc biệt. Mục tiêu là các dịch vụ tài chính cơ bản được cung cấp đến những đối tượng bị loại trừ tài chính theo cách thức phù hợp, thông qua các kênh phân phối từ truyền thống đến hiện đại. Cần có chính sách khuyến khích nhằm đảm bảo phát triển mạnh mẽ hơn nữa hoạt động của hệ thống ngân hàng, khuyến khích các ngân hàng đa dạng hóa các hình thức cho vay, các sản phẩm tín dụng.
Bốn là, nâng cao an toàn và giảm rủi ro tài chính. Tăng cường quản lý và giám sát hoạt động tài chính, bao gồm việc đẩy mạnh khả năng phòng ngừa và xử lý rủi ro tài chính. Cải thiện tính minh bạch và độ tin cậy trong hệ thống tài chính, đảm bảo rằng thông tin và dữ liệu tài chính được công bố một cách đầy đủ và minh bạch. Việc triển khai các hệ thống bảo mật tiên tiến và quy định quản lý dữ liệu chặt chẽ, như yêu cầu của NHNN sẽ giúp bảo vệ người tiêu dùng và duy trì niềm tin vào hệ thống tài chính.
Năm là, thúc đẩy tài chính bền vững và xanh. Phát triển các sản phẩm và dịch vụ tài chính hướng tới tài chính bền vững và xanh, bao gồm vốn đầu tư xanh, các khoản vay để hỗ trợ dự án tái tạo năng lượng và giảm phát thải. Xây dựng và thúc đẩy các chương trình và chính sách khuyến khích người dân và doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính bền vững.
Sáu là, nâng cao nhận thức cũng như kỹ năng tài chính của người dân. Giáo dục tài chính sẽ giúp nâng cao hiểu biết và kỹ năng tài chính của người dân, qua đó, giúp người dân hiểu được vai trò, lợi ích của các sản phẩm tài chính trong việc cải thiện cuộc sống của các cá nhân, cũng như hộ gia đình.
Tài liệu tham khảo:
- Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;
- Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020;
- Trần Thị Lan, Hoàng Thị Bích Hà (2019). Tài chính toàn diện – Vai trò và nhân tố tác động, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán;
- Thanh Thủy, Lệ Yên, Hồng Kiên (2022), Khắc phục hạn chế để Chiến lược tài chính toàn diện góp phần đẩy nhanh giảm nghèo đa chiều, https://vietnamnet.vn/khac-phuc-han-che-de-chien-luoc-tai-chinh-toan-dien-day-nhanh-giam-ngheo-2097294.html;
- AFI (2017), Defining financial inclusion, Guideline Note No. 28;
- Worldbank (2017), The global findex database 2017 measuring financial inclusion and the fintech revolution. Washington DC, USA.: The Worldbank. 14;
- Worldbank (2018), Financial inclusion: overview. Retrieved from doi:https://www.worldbank.org/en/topic/ financialinclusion/overview.

















