Khánh Hòa phát triển kinh tế – xã hội gắn với sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Đức Mạnh

Sau khi sáp nhập với Ninh Thuận cũ, tỉnh Khánh Hoà có diện tích hơn 8.500 km², dân số khoảng 2,2 triệu người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 13% với gần 293.000 người. Đây là nhóm dân cư tập trung ở vùng núi, ven biển và hải đảo, chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện phát triển, vì vậy trở thành đối tượng trọng tâm trong Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025.

Khánh Hoà hướng dẫn kỹ thuật cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế.
Khánh Hoà hướng dẫn kỹ thuật cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế.

Tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh Khánh Hòa giảm bình quân hơn 5% mỗi năm trong giai đoạn 2021–2025. Tỉnh đã hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người nghèo với 3.509 căn nhà được xây mới hoặc sửa chữa, đồng thời hỗ trợ thêm 1.688 hộ nghèo về nhà ở. Hơn 600 hộ thiếu đất sản xuất được giúp chuyển đổi nghề, mở ra cơ hội sinh kế mới. Gần 1.000 hộ được cấp nước sinh hoạt phân tán và 20 công trình nước sinh hoạt tập trung đã được đầu tư.

Song song đó, 176 công trình hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, trường học, trạm y tế vùng núi được xây mới hoặc nâng cấp. Tổng vốn giải ngân cho các vùng đồng bào dân tộc và miền núi đạt gần 255,4 tỷ đồng, chủ yếu dành cho phát triển sản xuất và cải thiện điều kiện sinh hoạt. Các con số cho thấy chính sách đi vào thực tế và có tác động rõ rệt.

Tính theo từng khu vực, vùng Khánh Hòa cũ năm 2022 có 10.826 hộ nghèo dân tộc thiểu số, đến cuối năm 2024 còn 4.348 hộ, giảm bình quân 7,2% mỗi năm. Ở vùng Ninh Thuận cũ, số hộ nghèo giảm từ 11.015 năm 2022 xuống 4.971 năm 2024. Đây là bước tiến quan trọng, phản ánh hiệu quả của chương trình và sự vào cuộc của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở.

Tuy nhiên, kết quả trên mới chỉ là bước đầu. Thách thức lớn nhất hiện nay là làm thế nào để người dân không chỉ thoát nghèo trên con số thống kê mà còn có cuộc sống ổn định, lâu dài. Nhiều mô hình chuyển đổi nghề chưa thật sự bền vững, còn nhỏ lẻ, thiếu liên kết thị trường, dễ rơi vào tình trạng được mùa mất giá. Kỹ năng nghề và khả năng quản lý tài chính của hộ nghèo còn hạn chế, dẫn đến khó mở rộng sản xuất.

Hạ tầng tuy được cải thiện nhưng vẫn còn những xã khó tiếp cận y tế, giáo dục và giao thông thuận tiện. Công trình sau khi hoàn thành nếu thiếu kinh phí duy tu sẽ nhanh xuống cấp. Ngoài ra, tiến độ giải ngân ở một số tiểu dự án còn chậm do thủ tục phức tạp, khiến chính sách chưa phát huy tác dụng kịp thời. Nguy cơ tái nghèo cũng hiện hữu khi biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và biến động lao động có thể tác động mạnh đến sinh kế vốn mong manh của đồng bào dân tộc.

Trong giai đoạn tới, Khánh Hòa sẽ đặt trọng tâm vào chiến lược sinh kế dài hạn. Các mô hình sản xuất phải gắn chặt với thị trường tiêu thụ, có sự tham gia của doanh nghiệp và hợp tác xã. Đào tạo nghề phải thiết thực, dựa vào lợi thế địa phương, kết hợp tri thức bản địa với khoa học kỹ thuật hiện đại.

Hạ tầng cần tiếp tục được đầu tư đồng bộ, đặc biệt ở những xã còn khó khăn về nước sinh hoạt, y tế và giáo dục, đồng thời có cơ chế bảo trì công trình sau đầu tư để tránh lãng phí. Thủ tục hành chính cần đơn giản hóa, tiến độ vốn phải được đẩy nhanh, minh bạch để người dân sớm được hưởng lợi.

Để bảo đảm tính bền vững, cần xây dựng “lưới an toàn” chống tái nghèo, bao gồm cơ chế hỗ trợ khi thiên tai, biến đổi khí hậu hoặc dịch bệnh gây thiệt hại, khuyến khích đa dạng hóa thu nhập và tham gia bảo hiểm nông nghiệp. Quan trọng hơn, người dân phải trở thành chủ thể của quá trình giảm nghèo. Khi cộng đồng được tham gia từ khâu lập kế hoạch đến giám sát, họ sẽ chủ động hơn trong việc giữ gìn kết quả và nhân rộng mô hình hiệu quả.

Khánh Hòa đã chứng minh quyết tâm trong công cuộc giảm nghèo khi tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, nhà tạm được xóa sạch, hạ tầng thiết yếu từng bước hoàn thiện. Nhưng thành quả chỉ thực sự có ý nghĩa nếu gắn liền với chất lượng cuộc sống của người dân và khả năng chống chịu trước rủi ro. Từ nay đến hết giai đoạn 2021–2025 và xa hơn, thước đo thành công không chỉ là con số hộ nghèo giảm, mà là mức độ an toàn và ổn định của sinh kế đồng bào dân tộc thiểu số.