Hóa giải các thách thức trong giảm nghèo bền vững
Sau gần 5 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã đạt nhiều kết quả tích cực trong hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nâng cao chất lượng cuộc sống... Tuy nhiên, để đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững trong giai đoạn tới cần nhanh chóng tháo gỡ những “điểm nghẽn” nội tại trong quá trình triển khai Chương trình.

Những kết quả tích cực
Trong giai đoạn năm 2021-2025, dù có nhiều thiên tai và biến động kinh tế toàn cầu tác động vào Việt Nam, nhưng việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Theo Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, tính đến hết tháng 3/2025, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm xuống còn 1,93%, giảm mạnh so với mức 5,2% đầu giai đoạn. Tính ra, tốc độ giảm bình quân trên 1,6% mỗi năm, kết quả này vượt mục tiêu giảm từ 1-1,5%/năm mà Quốc hội đặt ra.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo đến cuối năm 2024 giảm còn khoảng 25%, từ mức gần 45% đầu kỳ.
Tại các huyện nghèo, nơi từng được coi là “điểm nóng” về thiếu việc làm, thiếu sinh kế và hạ tầng yếu kém, tỷ lệ hộ nghèo cũng đã giảm xuống rất mạnh so với mức trên 50% của nhiều năm trước. Tại các huyện này, hơn 5.200 hộ dân vươn lên thoát nghèo và gần 262.000 công trình hạ tầng nông thôn được hoàn thành.
Về hỗ trợ ngân sách, những năm qua, Quốc hội và Chính phủ đặc biệt quan tâm, bố trí ngân sách trung ương khoảng 44,6 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 80%) để hỗ trợ các địa phương khó khăn.
Ngoài ra, các địa phương cũng đã đối ứng khoảng 3.000 tỷ đồng theo quy định, đồng thời huy động thêm hơn 7.000 tỷ đồng từ các nguồn lực xã hội cho công tác giảm nghèo.
Nhờ nguồn lực này và sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, Chương trình đã đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Mục tiêu giai đoạn 5 năm đạt 2/5 mục tiêu và vượt 3/5 mục tiêu. Về chỉ tiêu giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản, có 4 chỉ tiêu vượt, 5 chỉ tiêu đạt và chỉ còn 3 chỉ tiêu chưa hoàn thành.
Dự kiến, đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước sẽ giảm từ 5,2% đầu kỳ xuống còn khoảng 1,93%. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều trên cả nước sẽ chỉ còn khoảng 1% - vượt so với mục tiêu đề ra. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm gần một nửa, từ 45% xuống còn 24,86%; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số từ 25% xuống còn 12,55%.
Về triển khai mô hình giảm nghèo, Chương trình đã triển khai trên 11.000 mô hình giảm nghèo, trong đó hơn 10.000 mô hình liên quan đến sản xuất nông nghiệp, khoảng 1.000 mô hình nông nghiệp tiêu biểu được thực hiện tại khu vực nông thôn.
Về phát triển hạ tầng và dịch vụ xã hội, Chương trình đã đầu tư xây dựng mới hơn 5.000 công trình hạ tầng. Trong đó, có khoảng 1.000 công trình phục vụ việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, điện, đường, trường, trạm.
Những nỗ lực này đã giúp 19/54 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đạt chuẩn nông thôn mới, vượt chỉ tiêu được giao (đạt 35,18% so với chỉ tiêu 30%).
Mặt khác, trên 134.000 lao động nghèo được hỗ trợ kết nối việc làm; hơn 160.000 trẻ em dưới 16 tuổi được cải thiện chế độ dinh dưỡng, góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em xuống còn 25,42% - vượt chỉ tiêu đề ra là 34%.
Tập trung giải quyết các thách thức trong giảm nghèo bền vững
Bên cạnh kết quả đạt được trên, việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững vẫn còn những “điểm nghẽn” cần được tích cực tháo gỡ trong giai đoạn tới.
Về cơ chế, chính sách, đây cũng là trở ngại lớn nhất, gây ra không ít khó khăn, thách thức trong triển khai Chương trình tại các địa phương do văn bản ban hành còn chậm, chưa phù hợp với thực tễ triển khai tại mỗi địa phương.
Về tài chính, mặc dù ngân sách được phân bổ hằng năm, nhưng tiến độ giải ngân vẫn còn chậm, chưa kịp thời. Một số khoản hỗ trợ thiết yếu như vốn cải thiện dinh dưỡng hay hỗ trợ nhà ở chưa được bổ sung kịp thời.
Nhiều địa phương cũng gặp khó khăn do vướng mắc trong giải phóng mặt bằng thi công các công trình, quy trình phê duyệt kéo dài hoặc thiếu vốn đối ứng.
Thêm vào đó, năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở tại các vùng khó khăn còn hạn chế. Việc thay đổi nhân sự thường xuyên, thiếu ổn định và kinh nghiệm đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả điều phối và giám sát các dự án.
Hệ thống công nghệ thông tin phục vụ giám sát, đánh giá và quản lý dữ liệu giảm nghèo vẫn chưa được đồng bộ giữa các cấp. Việc tổng hợp và phân tích dữ liệu còn chậm, trong khi công cụ rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn chưa thống nhất trên toàn quốc, gây ảnh hưởng đến độ chính xác và tính kịp thời.
Hoạt động truyền thông tuy được triển khai rộng rãi, nhưng vẫn chưa thực sự chạm tới những vùng đặc biệt khó khăn. Nội dung truyền thông chưa phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và khả năng tiếp cận của đồng bào dân tộc thiểu số. Việc ứng dụng các nền tảng số và kênh hiện đại còn hạn chế, khiến hiệu quả lan tỏa thông tin chưa cao...
Để hóa giải các thách thức trên, các chuyên gia cho rằng, thời gian tới, các chương trình mục tiêu quốc gia nên được tích hợp để thống nhất nguồn lực và tối ưu quản lý.
Nguồn vốn đầu tư sẽ dồn vào các “lõi nghèo” khó khăn nhất nhằm tạo đột phá. Chính sách được thiết kế lấy địa phương và người dân làm trung tâm, phát huy vai trò chủ thể cộng đồng.
Cùng với đó, đẩy mạnh truyền thông chính sách để người dân hiểu đúng và có lộ trình thoát nghèo hiệu quả, thực chất. Cơ chế giám sát có sự tham gia của người dân, đảm bảo nguồn lực đầu tư công minh bạch và thực sự phục vụ cộng đồng.
Với những giải pháp trên, hy vọng rằng, trong giai đoạn tới, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc sẽ giảm mạnh, đạt mục tiêu, yêu cầu mà Chương trình đã đề ra, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.