VPE500: Minh chứng sức bật và vai trò trụ cột của khu vực tư nhân Việt Nam
Ngày 6/11, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) phối hợp với Viện Konrad-Adenauer-Stiftung (KAS) Việt Nam tổ chức Hội thảo “Đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500) - Báo cáo 2025”.
Phản ánh sức bật của doanh nghiệp tư nhân lớn
Phát biểu khai mạc, TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) nhấn mạnh, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp lớn vào tăng trưởng, đổi mới sáng tạo, tạo việc làm và bảo đảm an sinh xã hội. Quan điểm này đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển nhanh và bền vững kinh tế tư nhân.
Theo TS. Nguyễn Như Quỳnh, hiện nay, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách, với hơn 940 nghìn doanh nghiệp và 5 triệu hộ kinh doanh, sử dụng khoảng 82% lực lượng lao động. Đặc biệt, nhóm 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất (VPE500) dù chỉ chiếm 0,05% tổng số doanh nghiệp nhưng lại đóng góp 11,8% doanh thu, 17,4% tổng tài sản và 5,8% lao động của toàn khu vực doanh nghiệp Việt Nam.
“2025 là năm thứ ba Báo cáo VPE500 được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính và KAS Việt Nam. Báo cáo kỳ vọng mang đến cái nhìn toàn diện hơn về khu vực doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, góp phần thúc đẩy thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW và phát triển khu vực kinh tế tư nhân trở thành lực lượng chủ lực trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, TS. Nguyễn Như Quỳnh chia sẻ.
Theo ông Lewe Paul - Trưởng Đại diện KAS Việt Nam, từ năm 2020 đến nay, các doanh nghiệp thuộc VPE500 đã ghi nhận sự tăng trưởng rõ rệt về quy mô, doanh thu và đầu tư. Ông nhấn mạnh rằng VPE500 không chỉ đơn thuần là một bảng xếp hạng thống kê, mà còn là công cụ phản ánh vai trò ngày càng lớn của nhóm doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Dẫn lại thông điệp của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc gặp với cộng đồng doanh nghiệp mới đây, ông Lewe Paul khẳng định khu vực doanh nghiệp tư nhân là trụ cột của nền kinh tế và là động lực chủ chốt trong tiến trình chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo. Do đó, Báo cáo VPE500 năm 2025 mang ý nghĩa tổng kết, đồng thời là cơ sở tham chiếu quan trọng cho giai đoạn 2026-2030.
Nghiên cứu này cũng phù hợp chặt chẽ với định hướng của Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân bền vững. Với vai trò là tổ chức kết nối giữa hoạch định chính sách và thị trường, KAS kỳ vọng các khuyến nghị từ báo cáo sẽ góp phần xây dựng môi trường thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển mạnh mẽ, ổn định trong thời gian tới.
Tư nhân lớn đang định hình lại cấu trúc kinh tế
Chia sẻ tại Hội thảo, TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập (Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính) cho biết, VPE500 được xác định dựa trên ba tiêu chí: quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu gộp. Báo cáo này cũng không tập trung vào mục đích xếp hạng, mà tập trung nhiền hơn vào phân tích kết quả hoạt động và liên kết, tác động của nhóm doanh nghiệp VPE500.
Theo TS. Trần Toàn Thắng, tại thời điểm cuối năm 2023, Việt Nam có trên 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, có 940 ngàn doanh nghiệp có báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân trong nước chiếm 97% số doanh nghiệp, thu hút 57,78% số lao động, chiếm 50,67% vốn và tạo ra 52,56% doanh thu thuần của khu vực doanh nghiệp.
So sánh với khối doanh nghiệp tư nhân nói chung, nhóm VPE500 gấp trên 200 về lao động; gấp tới 500 lần về tổng tài sản; gấp hơn 300 lần về doanh thu và 389 lần về số tiền nộp ngân sách. Tính theo ngành, số lượng VPE500 trong ngành chế biến chế tạo đã giảm đi so với trước giai đoạn COVID-19, từ 236 còn 207 doanh nghiệp, nhường chỗ chỗ nhóm ngân hàng - tài chính; bất động sản...
Theo đó, ngành Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng từ 37 doanh nghiệp lên 52 doanh nghiệp, phản ánh bước trưởng thành của hạ tầng tài chính tư nhân Việt Nam, do quá trình đa dạng hóa mô hình kinh doanh tài chính. Ngành thương mại tăng từ 72 lên 90. Ngành Bất động sản chứng kiến sự gia tăng mạnh, từ 22 lên 40 doanh nghiệp. Điều này cho thấy những ngành tăng trưởng nhanh thời gian qua vẫn tập trung nhiều vào lĩnh vực dịch vụ, tài sản. Trong khi đó, các ngành sản xuất thu hẹp.
Với riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân, VPE500 đang chiếm tỷ lệ khá lớn. Trong đó, về doanh thu, với một số ngành cụ thể, VPE500 đang chiếm tới 50% trong ngành ngân hàng, 47% với ngành bất động sản và trong chế biến chế tạo là khoảng 13%.
“Các doanh nghiệp VPE500 có tác động lan toả khá tốt tới các ngành và lĩnh vực. Các doanh nghiệp VPE500 không chỉ trực tiếp tạo ra sản lượng lớn, mà còn kéo theo sự mở rộng sản xuất ở nhiều ngành khác”, TS. Trần Toàn Thắng nêu rõ.
Doanh nghiệp tư nhân cần dư địa tăng trưởng mới
Tại Hội thảo, các chuyên gia tập trung thảo luận về giải pháp thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn. Ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam - nhận định khu vực doanh nghiệp tư nhân đang phát triển năng động và đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và việc làm. Tuy nhiên, khu vực này vẫn đối mặt nhiều thách thức mang tính nền tảng, cần được giải quyết để tạo dư địa phát triển bền vững.
Theo ông Hùng, môi trường kinh doanh hiện còn tồn tại những rào cản như chi phí tuân thủ cao, tính minh bạch chưa đồng đều và khả năng dự đoán chính sách còn hạn chế. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp có xu hướng duy trì quy mô “vừa đủ”, ngại mở rộng vì lo ngại rủi ro. Hiệu lực thực thi hợp đồng và liên kết chuỗi giá trị yếu cũng cản trở doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh dài hạn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, dịch chuyển chuỗi giá trị và chuyển đổi số, việc hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu vào thị trường quốc tế ngày càng trở nên cần thiết. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các quốc gia thường thiết kế chính sách hỗ trợ xoay quanh ba nhóm chính: ưu đãi thuế; tín dụng và bảo lãnh tài chính; và xây dựng khung thể chế, chiến lược quốc gia. Các công cụ này nếu vận hành hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp tư nhân mở rộng quy mô và tăng sức cạnh tranh.
Trong khi đó, ông Nguyễn Đình Cung - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, khó khăn lớn của doanh nghiệp tư nhân là áp lực minh bạch và quản trị khi phát triển lớn hơn, trong khi phần lớn doanh nghiệp có nguồn gốc gia đình, thiếu nền tảng chuyên nghiệp và khó tiếp cận nhân lực chất lượng.
Bên cạnh đó, yếu tố tâm lý e ngại rủi ro và thay đổi cơ cấu sở hữu khiến nhiều doanh nghiệp không muốn tăng quy mô. Do đó, cần cải thiện thực thi pháp luật, minh bạch cơ chế giải quyết tranh chấp và tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các dự án lớn của quốc gia.
Tại Hội thảo, bà Trịnh Thị Hương - Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể (Bộ Tài chính) cho biết, sau gần 6 tháng triển khai, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức xã hội về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, coi đây là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, Bộ Tài chính sẽ sớm trình Chính phủ ban hành 3 Nghị định và 2 Chương trình gồm: Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn; Nghị định hướng dẫn chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp thực hiện dự án xanh, tuần hoàn, ESG thông qua các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; Nghị định về hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành và Chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong.
















