Thực trạng và giải pháp áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

TS. Lê Thị Ánh - Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Trong bối cảnh các quốc gia đang hướng đến phát triển bền vững, thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường, tài chính xanh là chủ đề nghiên cứu đang nhận được nhiều sự quan tâm. Có nhiều nghiên cứu về tài chính xanh được thực hiện ở các góc độ khác nhau, tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về ý định áp dụng tài chính xanh trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu về những rào cản trong áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp này. Bài viết này sẽ đánh giá thực trạng và những rào cản áp dụng tài chính xanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam và đề xuất một số giải pháp trong thời gian tới.

Tổng quan về tài chính xanh

Khái niệm về tài chính xanh

Có khá nhiều định nghĩa về tài chính xanh. Theo đó, một số nghiên cứu cho rằng, tài chính xanh là đầu tư xanh. Bên cạnh đó, có nhiều nghiên cứu cho rằng, tài chính xanh là việc tài trợ vốn cho hoạt động đầu tư có trách nhiệm với môi trường và phát triển bền vững. Có thể thấy, mặc dù chưa có định nghĩa thống nhất về tài chính xanh nhưng các định nghĩa đều cho rằng tài chính xanh gắn với phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.

Theo tác giả, tài chính xanh là quá trình hình thành, tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ hoạt động đầu tư nhằm giảm thiểu sự tác động xấu đến môi trường, đóng góp vào sự phát triển bền vững của các chủ thể kinh tế và toàn xã hội.

Các công cụ tài chính xanh

Về lý thuyết, các công cụ tài chính xanh bao gồm công cụ nợ, công cụ vốn, công cụ phái sinh, bảo hiểm. Thực tế tại Việt Nam hiện nay, công cụ nợ được xây dựng và phát triển mạnh nhất trong hệ thống các công cụ tài chính, trong đó gồm trái phiếu xanh, tín dụng xanh.

Trái phiếu xanh

Theo khoản 1 Điều 150, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020: “Trái phiếu xanh là trái phiếu do Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp (DN) phát hành theo quy định của pháp luật về trái phiếu để huy động vốn cho hoạt động bảo vệ môi trường, dự án đầu tư mang lại lợi ích về môi trường”.

Trong những năm gần đây, các bộ ngành liên quan đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ thị trường trái phiếu xanh như hướng dẫn DN công bố thông tin, minh bạch hoạt động tài chính xanh, khuyến khích DN niêm yết trên thị trường chứng khoán. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) đã tích cực triển khai các biện pháp hiện thực hóa thu hút đầu tư vào thị trường trái phiếu xanh. Đồng thời, Việt Nam đang tích cực hợp tác với một số tổ chức quốc tế để phát hành trái phiếu xanh.

Cổ phiếu xanh

Cổ phiếu xanh được hiểu là cổ phiếu của các DN huy động với mục đích đầu tư cho các dự án, chương trình làm giảm thiểu sự tác động đến môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.

Thị trường cổ phiếu xanh ở Việt Nam mới đang trong giai đoạn tạo lập. Các cơ quan chức năng chủ yếu đưa ra các chương trình, chỉ số khuyến khích DN chú trọng phát triển bền vững.

Tín dụng xanh

Theo điều 149, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, tín dụng xanh là tín dụng được cấp cho dự án đầu tư sau đây: Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; Ứng phó với biến đổi khí hậu; Quản lý chất thải; Xử lý ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường;Phục hồi hệ sinh thái tự nhiên;Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; Tạo ra lợi ích khác về môi trường.

Khái niệm trên đã bao phủ khá toàn diện về các mục đích cấp vốn của tín dụng xanh, từ tác động của việc ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm, cho đến tài trợ cho các dự án về môi trường tự nhiên và con người nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.

Đánh giá thực trạng ý định áp dụng tài chính xanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam

Lý thuyết nghiên cứu

Để đánh giá ý định áp dụng tài chính xanh tại các DN vừa và nhỏ Việt Nam, tác giả vận dụng lý thuyết hành vi dự kiến (Theory of planned behavior – TPB) (Ajzen, 1991). Cụ thể, Ajzen (1991) cho rằng, ý định thực hiện hành vi sẽ chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố gồm: thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi.

- Thái độ ảnh hưởng hành vi: Là đánh giá của cá nhân về kết quả thu được từ việc thực hiện một hành vi cụ thể, ám chỉ kết quả nhận được là tốt hay xấu, sự hữu ích, dễ sử dụng của hành vi, cũng như mức độ đánh giá thuận lợi hay bất lợi về hành vi của cá nhân.

- Chuẩn mực chủ quan: Là cảm nhận của cá nhân về các áp lực hay các tác động xung quanh đối với việc thực hiện hay không thực hiện một hành vi. Đó là tác động từ nhóm người tham khảo hoặc tác động từ xã hội.

- Nhận thức kiểm soát hành vi: Là cảm nhận của cá nhân về việc thực hiện hành vi là khó hay dễ, thể hiện khả năng thực hiện hành động nhất định, kèm theo là thái độ, trách nhiệm của cá nhân đối với hành vi đó.

Phương pháp nghiên cứu

Tác giả thực hiện khảo sát các DN vừa và nhỏ thông qua phiếu khảo sát. Các câu hỏi chủ yếu sử dụng thang đo Likert với 5 mức, từ 1 = hoàn toàn không đồng ý đến 5 = hoàn toàn đồng ý.

Số lượng DN vừa và nhỏ khảo sát là 260, thỏa mãn điều kiện là DN vừa và nhỏ, sau khi thu được kết quả khảo sát thì loại 2 phiếu khảo sát không hợp lệ, còn 258 khảo sát hợp lệ.

Thời gian khảo sát được từ tháng 6 đến tháng 10/2024. Đối tượng khảo sát gồm: Thành viên ban giám đốc DN, kế toán trưởng, trưởng phòng tài chính của các DN vừa và nhỏ. Phiếu được gửi đến đối tượng khảo sát theo phương thức trực tiếp hoặc thông qua công cụ google form. Kết quả khảo sát được tác giả tổng hợp và thực hiện phân tích với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS.

Hình 1: Mô hình lý thuyết hành vi dự kiến – TPB Nguồn: Ajzen (1991)
Hình 1: Mô hình lý thuyết hành vi dự kiến – TPB Nguồn: Ajzen (1991)

Thực trạng ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

Về ý định áp dụng tài chính xanh trong thời gian tới của các DN được khảo sát, thu được kết quả như Bảng 1. Bảng 1 cho thấy, có tới 58,5% số DN được khảo sát chưa có ý định áp dụng tài chính xanh, chỉ hơn 40% các DN cho biết có ý định áp dụng hoặc rất có ý định áp dụng tài chính xanh. Vì vậy việc nghiên cứu và triển khai các giải pháp tác động đến ý định áp dụng tài chính xanh cho các DN vừa và nhỏ Việt Nam là cần thiết.

- Thái độ đối với hành vi

Kết quả Bảng 2 cho thấy, DN đánh giá thấp nhất với biến TĐHV1 (Mean = 3.46) cho thấy, thái độ của DN đối với hiểu biết về tài chính xanh và các công cụ của tài chính xanh vẫn chưa cao. Nguyên nhân được các DN khảo sát giải thích là do “Những quy định, văn bản pháp luật hướng dẫn về chủ đề này còn hạn chế” hay “DN chưa được đào tạo, truyền thông nhiều về tài chính xanh cũng như công cụ của tài chính xanh”.

Bên cạnh đó, biến được đánh giá cao nhất là TĐHV5 (Mean = 3.67) cho thấy, thái độ của DN đánh giá cao về việc áp dụng tài chính xanh sẽ giúp DN có lợi khi được đánh giá tốt hơn việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. DN được phỏng vấn có những đánh giá tích cực về mục đích của tài chính xanh ngoài nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho DN, còn giúp giảm thiểu sự tác động đến môi trường, giúp DN phát triển bền vững.

Hai biến còn lại TĐHV2 và TĐHV3 có mean lần lượt là 3.59, 3.50 cho thấy, các DN được khảo sát có thái độ trên mức trung lập, gần như đồng ý với quan điểm nhận được nhiều lợi ích khi áp dụng tài chính xanh và quan tâm vay vốn từ tài chính xanh hơn các nguồn vốn vay khác.

- Chuẩn mực chủ quan

Bảng 3 cho thấy, biến quan sát CMCQ5 có mean = 3.40 được đánh giá thấp nhất, cho thấy cảm nhận của DN trong ưu tiên áp dụng tài chính xanh ở trên mức trung lập và chưa cao. Một số DN được khảo sát cho rằng, các rào cản về quy trình thủ tục, điều kiện vay vốn, thời gian vay vốn và các văn bản pháp lý liên quan chưa rõ ràng khiến DN chưa dành nhiều sự ưu tiên áp dụng tài chính xanh.

Biến CMCQ4 có mean = 3.80 đạt giá trị cao nhất cho thấy DN dành nhiều sự quan tâm đến sự ủng hộ của chính phủ trong việc áp dụng tài chính xanh tại DN. Điều đó thể hiện bằng hành động cụ thể như ban hành các văn bản, quy định hướng dẫn rõ về tài chính xanh, cũng như đưa ra nhiều chính sách khuyến khích, thúc đẩy DN áp dụng như ưu đãi về lãi suất, kéo dài thời gian vay vốn và các ưu tiên khác.

Các biến CMCQ2 và CMCQ3 có mean lần lượt là 3.66 và 3.74 cho thấy, sự quan tâm của DN về sự ủng hộ của nhà quản trị, những người góp vốn và các tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc áp dụng tài chính xanh khá cao.

- Nhận thức kiểm soát

Theo kết quả Bảng 4, các biến quan sát có mean từ 3.41 đến 3.52 cho thấy, ý kiến của các DN được hỏi về nhân tố nhận thức kiểm soát trong tài chính xanh đều trên mức trung lập, nhưng chưa cao.

Điều đó cho thấy, nhận thức của DN trong đánh giá khả năng kiểm soát dòng tiền, lợi nhuận, trả được nợ gốc, lãi của khoản vay tín dụng xanh sau khi đã ký kết hợp đồng tại các TCTD chưa cao. Đây là rào cản khiến ý định áp dụng tài chính xanh tại các DN vừa và nhỏ chưa được thúc đẩy mạnh.

Đánh giá rào cản áp dụng tài chính xanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

Bảng 1: Ý định áp dụng tài chính xanh

 

Số lượng

%

% tích lũy

Hầu như không có ý định áp dụng

32

12,4

12,4

Chưa biết

119

46,1

58,5

Có ý định áp dụng

100

38,8

97,3

Rất có ý định áp dụng

7

2,7

100,0

Tổng

258

100,0

 

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu SPSS

Bảng 2: Trung bình của các biến quan sát thái độ đối với hành vi

Biến quan sát

Giải thích

N

Min

Max

Mean

TĐHV1

DN am hiểu về tài chính xanh
và các công cụ
tài chính xanh

258

1

5

3.46

TĐHV2

DN nhận được nhiều lợi ích
khi áp dụng
tài chính xanh

258

2

5

3.59

TĐHV3

DN quan tâm
đến vay vốn từ tài chính xanh hơn các nguồn vốn vay khác

258

2

5

3.50

TĐHV5

DN được đánh giá tốt hơn việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu

258

2

5

3.67

Valid N (listwise)

DN am hiểu
về tài chính xanh và các công cụ tài chính xanh

258

     

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu SPSS

Bảng 3: Trung bình của các biến quan sát chuẩn mực chủ quan

Biến quan sát

Giải thích

N

Min

Max

Mean

CMCQ2

Nhà quản trị
và người góp vốn tại DN ủng hộ
ý định áp dụng
tài chính xanh

258

2

5

3.66

CMCQ3

Các tổ chức cung cấp tín dụng ủng hộ ý định áp dụng tài chính xanh

258

3

5

3.74

CMCQ4

Chính phủ ủng hộ ý định áp dụng
tài chính xanh

258

2

5

3.80

CMCQ5

DN ưu tiên áp dụng tài chính xanh khi lựa chọn các khoản vay
tín dụng

258

2

5

3.40

Valid N (listwise)

 

258

     

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu SPSS

Bảng 4: Trung bình của các biến quan sát nhận thức kiểm soát

Biến quan sát

Giải thích

N

Min

Max

Mean

NTKS1

DN có thể dễ dàng kiểm soát dòng tiền khi
áp dụng tài chính xanh

258

2

5

3.50

NTKS2

DN có thể dễ dàng thu được lợi nhuận tốt hơn khi áp dụng tài chính xanh

258

3

5

3.52

NTKS3

DN có thể dễ dàng kiểm soát được thời gian vay vốn và trả nợ đúng hạn khi áp dụng tài chính xanh

258

2

5

3.48

NTKS4

DN dễ dàng trả được nợ gốc và lãi cho các tổ chức tín dụng khi áp dụng tài chính xanh

258

2

5

3.41

Valid N (listwise)

 

258

     

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu SPSS

 

Rào cản từ phía các DN vừa và nhỏ

Thứ nhất, các DN vừa và nhỏ gặp khó khăn trong đáp ứng yêu cầu cho vay từ các tổ chức tín dụng. Để được ngân hàng đồng ý cho vay, các DN vừa và nhỏ cần đáp ứng những điều kiện cho vay từ phía ngân hàng như: bao tài sản thế chấp, chứng minh được khả năng tài chính và dòng tiền trong 3 năm gần nhất.

Trên thực tế, các DN này thường kinh doanh “2 sổ sách” và không chú trọng đến việc xây dựng tín nhiệm bền vững với các ngân hàng.

Thứ hai, nhận thức của các DNNVV về tài chính xanh và phát triển bền vững còn nhiều hạn chế. Có thể kể đến nhiều nguyên nhân như: việc truyền thông về tài chính xanh, đầu tư xanh còn ít, chưa có những quy định, hướng dẫn cụ thể về lĩnh vực này, các chương trình đào tạo về tài chính xanh, dự án xanh trong thời gian qua chưa được chú trọng thực hiện. Ngoài ra, các DN vừa và nhỏ chưa phải là khách hàng mục tiêu trọng yếu của tín dụng xanh nên các ngân hàng cũng không thực hiện tuyên truyền và ra nhiều sản phẩm tín dụng xanh phù hợp.

Thứ ba, hạn chế trong ứng dụng và đổi mới công nghệ. Mức độ ứng dụng và cập nhật công nghệ trong DN còn khá thấp, các sản phẩm sản xuất ra có giá trị gia tăng không cao, sản phẩm mới với DN nhưng ít mới với thị trường.

Rào cản từ phía các chính sách liên quan

Thứ nhất, tiêu chí xanh chưa được đề cập đầy đủ trong khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng. Pháp luật về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng hiện hành chưa có quy định về hoạt động cho vay đối với dự án đầu tư, kinh doanh đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xanh nói chung, và các DN vừa và nhỏ nói riêng.

Thứ hai, pháp luật cấp tín dụng hiện hành chưa có quy định đầy đủ về sản phẩm tín dụng cho tăng trưởng xanh và phù hợp với DN vừa và nhỏ. Tăng trưởng tín dụng xanh mới chỉ dừng lại ở các biện pháp mang tính khuyến nghị các tổ chức tín dụng chủ động triển khai xây dựng chương trình, chính sách tín dụng xanh nhằm tăng dần tỷ trọng tín dụng xanh trong cơ cấu danh mục đầu tư tín dụng. Các sản phẩm tín dụng xanh hiện nay của các tổ chức tín dụng nói chung chưa hướng đến các đối tượng DN vừa và nhỏ.

Thứ ba, chưa có các chính sách cụ thể về việc hỗ trợ thuế, phí cũng như cơ chế bảo lãnh chuyên ngành, trợ cấp lãi suất tài chính để hỗ trợ tài trợ cho các dự án xanh. Mặc dù đã có nhiều nguồn vốn xanh được huy động để tài trợ cho các dự án xanh, tuy nhiên lãi suất ưu đãi chưa có sự hướng dẫn bởi các văn bản pháp luật mà chủ yếu từ sự quyết định chủ quan của các trung gian tài chính nên chưa thiết lập được quy định về mức lãi suất tốt nhất. Mặt khác, quy định cụ thể về ưu đãi thuế, phí của các dự án xanh cũng chưa được ban hành nên chưa tạo cơ sở pháp lý chắc chắn và yên tâm cho các DN nói chung, các DN vừa và nhỏ nói riêng áp dụng tài chính xanh.

Thứ tư, các văn bản pháp luật của các bộ, ban ngành liên quan chưa có sự đồng bộ, phối hợp hướng dẫn tốt để phát triển tài chính xanh. Việc chưa có quy định cụ thể về danh mục, ngành lĩnh vực xanh, vẫn chưa được thống nhất để có thể áp dụng chung, gây khó khăn cho các trung gian tài chính trong xây dựng hướng dẫn nội bộ về tài chính xanh, lựa chọn, thẩm định và đánh giá, giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

Thứ năm, hoạt động thu hút nguồn vốn xanh còn hạn chế. Hiện Nhà nước và Ngân hàng Trung ương, các bộ, ban ngành chưa xây dựng được những chính sách cụ thể để thu hút được nguồn vốn xanh từ các tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài.

Rào cản từ các tổ chức tín dụng

Một là, các ngân hàng thương mại (NHTM) chưa xây dựng được chính sách, quy trình tín dụng xanh tối ưu. Thiếu sự hướng dẫn của văn bản pháp luật về các nội dung liên quan, cũng như chưa có sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật về tín dụng xanh, sản phẩm xanh, dự án xanh nên thủ tục và quy định vay vốn tín dụng xanh tại các ngân hàng khá phức tạp và chưa rõ ràng.

Hai là, nhiều NHTM chưa ưu tiên cho vay các dự án xanh. Nhiều NHTM không ưu tiên các dự án xanh vì đây là những dự án sử dụng công nghệ mới, cần một lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Trong khi các nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng thường là vốn huy động ngắn, trung hạn.

Mặt khác, Việt Nam mới chỉ đang ở giai đoạn đầu phát triển tài chính xanh nên năng lực của các TCTD trong phát triển các sản phẩm tín dụng xanh còn nhiều hạn chế.

Ba là, khó khăn trong đánh giá năng lực, kinh nghiệm, khả năng hoàn vốn tín dụng xanh của các DN vừa và nhỏ. Các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định tình hình tài chính, kinh nghiệm, dự án xanh của các DN vừa và nhỏ do sự thiếu minh bạch về số liệu thẩm định, tài sản thế chấp và hướng dẫn pháp luật chuyên ngành liên quan.

Giải pháp thúc đẩy ý định áp dụngtài chính xanh tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nhằm thúc đẩy ý định áp dụng tài chính xanh tại các DN vừa và nhỏ Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:

Hoàn thiện các văn bản pháp lý về tài chính xanh

Các văn bản pháp lý về tài chính xanh hiện nay mặc dù đã được xây dựng và tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh trong thời gian tới, tuy nhiên việc hoàn thiện các văn bản pháp lý về tài chính xanh cần đáp ứng các yêu cầu sau:

Thứ nhất, gắn kết các chiến lược, kế hoạch phát triển xanh và tài chính xanh với quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, từ đó, thúc đẩy các địa phương, DN xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững với công cụ thực hiện là tài chính xanh.

Thứ hai, Chính phủ tăng cường chỉ đạo các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam. Cần xác định lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên và quy định tổ chức thẩm định hoặc xác nhận đủ tiêu chuẩn xanh. Theo đó, các cơ quan ban ngành sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chí môi trường và các tiêu chí xác định đối với các dự án được cấp tín dụng xanh, để các tổ chức tín dụng có cơ sở pháp lý xác thực các dự án, hạng mục dự án đáp ứng điều kiện tín dụng xanh.

Thứ ba, có cơ chế, tiêu chí, phương thức đo lường/kiểm kê mức độ phát thải khí nhà kính của các lĩnh vực, ngành nghề, đối tượng khác nhau để có định hướng chính sách về thuế, phí và tín chỉ cacbon điều tiết phù hợp.

Thứ tư, sớm có các chính sách thúc đẩy phát triển thị trường carbon như xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon, triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon, nhằm đẩy nhanh vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon tại Việt Nam.

Về phía Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hướng dẫn thực hiện ngân hàng xanh, tín dụng xanh cho các TCTD, trong đó đưa ra các tiêu chuẩn về tín dụng xanh, danh mục các ngành/lĩnh vực xanh để áp dụng chung, thống nhất, làm cơ sở để các TCTD lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng chính sách lãi suất phù hợp khi thực hiện cấp tín dụng xanh theo hướng ưu tiên hỗ trợ về lãi suất và các điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng đối với các dự án đầu tư thân thiện với môi trường.

Thu hút nguồn vốn dài hạn cho tài chính xanh

Nguồn lực tài chính thúc đẩy tăng trưởng xanh ở Việt Nam đã được xác định trong Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 được phê duyệt tại Quyết định số 882/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/7/2022 gồm nguồn lực từ ngân sách nhà nước; nguồn lực từ khu vực tư nhân; nguồn lực từ hỗ trợ quốc tế (ODA, vốn hỗ trợ và vay ưu đãi cho tăng trưởng xanh); và nguồn cộng đồng xã hội khác. Vì vậy, cần ban hành những chính sách huy động vốn dài hạn phù hợp với từng nguồn lực này trong từng giai đoạn phát triển.

Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cũng cần chủ động mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế thông qua các bộ/ban/ngành đầu mối, hoặc tiếp cận trực tiếp các định chế tài chính, tổ chức phi chính phủ, quỹ tín thác tín dụng xanh… để kêu gọi, huy động nguồn vốn quốc tế tài chính xanh với giá trị lớn, lãi suất hấp dẫn cho các DN.

NHNN cần phối hợp với các cơ quan chức năng cân nhắc đưa ra chính sách ưu đãi đối với các NHTM thực hiện tín dụng xanh. Đối với nguồn vốn tài chính xanh ngắn hạn hoặc trung hạn, NHNN có thể cho phép các NHTM có thể thực hiện thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi xanh. Chứng chỉ tiền gửi xanh là loại chứng chỉ tiền gửi mà trong đó số tiền huy động được từ việc phát hành chứng chỉ này sẽ được sử dụng để tài trợ cho các dự án vì môi trường, chống biến đổi khí hậu.

Hoàn thiện thủ tục thẩm định tài chính xanh

Hiện nay, hướng dẫn về thẩm định tín dụng được quy định trong Thông tư số 39/2016/TT-NHNN chưa đưa các yếu tố tác động môi trường và xã hội là các nội dung bắt buộc phải đánh giá trong quá trình thẩm định đề nghị cấp tín dụng. Vì vậy, trong thời gian tới, cần ban hành các quy định cụ thể cho các căn cứ về môi trường để các tổ chức tín dụng thực hiện thẩm định khía cạnh môi trường.

Ngoài ra, cần hoàn thiện việc đánh giá rủi ro môi trường – xã hội cho các ngành nghề để đưa ra hạn mức tài chính xanh phù hợp trên cơ sở các báo cáo tài chính, báo cáo về môi trường của DN hay các thông tin vi phạm của DN trong lĩnh vực môi trường. Việc đánh giá này vừa giúp các tổ chức tín dụng cấp vốn đến đúng đối tượng, vừa là yêu cầu để các DN thực hiện trách nhiệm môi trường tốt hơn, đặc biệt trong trường hợp DN có nhu cầu vay vốn từ tài chính xanh.

Vì vậy, các tổ chức tín dụng cần bổ sung nội dung thẩm định năng lực môi trường trong quy trình thẩm định tín dụng xanh. Các vi phạm về môi trường cũng cần được đánh giá, xem xét cẩn trọng dựa trên hậu quả vi phạm, tần suất vi phạm để từ đó đưa ra quyết định về hạn mức cấp vốn hay quyết định có cấp vốn hay không.

Hỗ trợ DN vừa và nhỏ sử dụng vốn tài chính xanh hiệu quả

Ngoài hỗ trợ lãi suất vay vốn tài chính xanh, thì nhà nước cùng các bên liên quan nên đưa ra các hỗ trợ về thị trường đầu ra, ứng dụng kỹ thuật, chiến lược, cơ chế thực hiện để các dự án xanh của DN sinh lời tốt nhất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn xanh.

Về phía DN, cần có các dự án xanh hiệu quả. Các DN cần nâng cao nhận thức, thay đổi quy trình sản xuất, triển khai giải pháp nhằm xanh hóa sản xuất, nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật về môi trường; chuyển đổi quy trình, dây chuyền sản xuất sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo định hướng tăng trưởng xanh.

Để tiếp cận tài chính xanh dễ dàng, các DN vừa và nhỏ cần tổ chức hệ thống sổ sách kế toán minh bạch, lập báo cáo Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG), kiểm kê phát thải theo đúng quy định để làm căn cứ phục vụ thẩm định tài chính xanh tại các tổ chức tín dụng. DN cũng cần đáp ứng những tiêu chí về chứng chỉ phù hợp với lĩnh vực ngành nghề.

Bên cạnh đó, Nhà nước và các TCTD, cơ sở đào tạo cần tổ chức các khóa đào tạo, huấn luyện về tài chính xanh cho các DN vừa và nhỏ, qua đó nâng cao kiến thức, hiểu biết và cách thực thi tài chính xanh hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:

  1. Quốc hội (2020), Luật số: 72/2020/QH14 ngày 17/11/2020, Luật Bảo vệ môi trường;
  2. Chính phủ (2017), Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 14/8/2017 về phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
  3. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2019), Sổ tay hướng dẫn doanh nghiệp nhỏ và vừa tiêu chí gắn với tăng trưởng xanh;
  4. Ngân hàng Nhà nước (2022), Thông tư 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
  5. Ngân hàng Nhà nước (2015), Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng;
  6. Ngân hàng Nhà nước (2018), Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 7/8/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam;
  7. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Tổ chức Tài chính Quốc tế IFC (2021), Hướng dẫn trái phiếu xanh, trái phiếu xã hội và trái phiếu bền vững;
  8. Ajzen (1991), Theory of Planned Behavior – TPB.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 11/2024