Quảng Ninh huy động đồng bộ nguồn lực, tạo chuyển biến rõ nét trong công tác giảm nghèo bền vững

PV

Bằng việc triển khai đồng bộ các dự án, tiểu dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, tỉnh Quảng Ninh đã huy động hiệu quả nhiều nguồn lực, từ ngân sách nhà nước đến xã hội hóa. Nhờ đó, hàng nghìn hộ nghèo có điều kiện phát triển sản xuất, hạ tầng thiết yếu vùng khó khăn được đầu tư đồng bộ, góp phần giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

Quảng Ninh triển khai hiệu quả Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025.
Quảng Ninh triển khai hiệu quả Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025.

Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai đồng bộ các dự án, tiểu dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đạt nhiều kết quả thiết thực, góp phần cải thiện đời sống người dân, đặc biệt tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn.

Theo UBND tỉnh Quảng Ninh, tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững trong giai đoạn này lên tới hàng trăm tỷ đồng, được phân bổ cho ba dự án thành phần với tám tiểu dự án cụ thể. Trong đó, trọng tâm là hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, nhân rộng mô hình giảm nghèo; đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống; nâng cao năng lực, truyền thông, giám sát và đánh giá việc thực hiện chương trình.

Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo được các địa phương triển khai sâu rộng, phù hợp điều kiện thực tế của từng vùng. Nhiều mô hình giảm nghèo hiệu quả được hình thành như trồng cây dược liệu, chăn nuôi gia súc, nuôi ong, nuôi cá lồng, phát triển sản phẩm OCOP gắn với du lịch cộng đồng…

Nhờ nguồn vốn hỗ trợ, hàng nghìn hộ nghèo, hộ cận nghèo có điều kiện phát triển sản xuất, mở rộng quy mô trồng trọt, chăn nuôi. Nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác và doanh nghiệp địa phương đã tham gia liên kết sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người dân, giúp nhiều hộ thoát nghèo bền vững. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm xuống mức rất thấp so với bình quân cả nước.

Cùng với hỗ trợ sinh kế, tỉnh Quảng Ninh tập trung triển khai dự án đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển sản xuất và đời sống dân cư vùng khó khăn. Nhiều công trình giao thông nông thôn, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi nhỏ được xây mới, cải tạo hoặc nâng cấp. Nhờ đó, điều kiện đi lại, học tập, chăm sóc sức khỏe của người dân miền núi, hải đảo và vùng biên giới được cải thiện rõ rệt. Việc lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình, dự án khác như xây dựng nông thôn mới hay phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giúp sử dụng hiệu quả ngân sách, tránh đầu tư chồng chéo.

Công tác tuyên truyền, tập huấn, giám sát và đánh giá chương trình được thực hiện thường xuyên. Các cơ quan, đơn vị, địa phương đẩy mạnh truyền thông về chính sách giảm nghèo đến người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa. Hàng nghìn lượt cán bộ, công chức cấp huyện, xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lập kế hoạch, hướng dẫn hộ nghèo tiếp cận chính sách, triển khai mô hình sinh kế. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, bảo đảm nguồn lực đầu tư đúng mục tiêu, đúng đối tượng, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế trong quá trình thực hiện, qua đó nâng cao hiệu quả và tính bền vững của chương trình.

Trong giai đoạn này, tỉnh Quảng Ninh huy động tổng hợp nhiều nguồn lực, bao gồm ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa để triển khai các tiểu dự án. Các địa phương chủ động lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án khác trên cùng địa bàn để tăng quy mô đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn. Công tác quản lý, phân bổ và giải ngân được thực hiện công khai, minh bạch, sát thực tế, bảo đảm hiệu quả đầu tư và hạn chế thất thoát, lãng phí.

Bước sang giai đoạn 2026 - 2030, Quảng Ninh tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững theo chỉ đạo của Trung ương, đồng thời duy trì, củng cố và phát huy kết quả đã đạt được. Tỉnh đặt mục tiêu giảm nghèo đa chiều, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân; tập trung hỗ trợ phát triển sinh kế, việc làm, đào tạo nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người dân vùng khó khăn; đồng thời huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tăng cường tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, bảo đảm chương trình thực hiện thực chất, hiệu quả và bền vững.