Kết nối hai khu vực kinh tế tư nhân - tập thể, tạo liên kết phát triển bền vững
Nghị quyết 68-NQ/TW đang mở ra giai đoạn phát triển mới cho kinh tế tư nhân Việt Nam. Trong tiến trình này, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam vừa là “ngôi nhà chung” của các hợp tác xã, vừa giữ vai trò “cầu nối tin cậy” gắn kết kinh tế tập thể với khu vực kinh tế tư nhân, góp phần thúc đẩy hợp tác, phát triển hài hòa và bền vững giữa các thành phần kinh tế.
Cầu nối và động lực phát triển
Hiện nay, kinh tế tư nhân được xem như lực kéo gia tăng năng lực cạnh tranh và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, sự phát triển đơn lẻ, thiếu liên kết chuỗi đã tạo ra nhiều hạn chế về năng lực thị trường, công nghệ và sức cạnh tranh. Do đó, mối quan hệ tương hỗ giữa kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể thông qua mô hình Hợp tác xã được nhấn mạnh như một hướng phát triển bền vững, mang tính bổ trợ và nâng đỡ lẫn nhau.
Doanh thu bình quân của mỗi Hợp tác xã đạt khoảng 3,1 tỷ đồng/năm, lợi nhuận trung bình 255 triệu đồng. Dù đóng góp trực tiếp của khu vực này vào GDP mới khoảng 4,8%, nhưng nếu tính cả đóng góp gián tiếp từ kinh tế hộ thành viên thì tỷ lệ có thể lên đến 30%, khẳng định vai trò trụ đỡ của mô hình Hợp tác xã trong phát triển kinh tế bền vững và ổn định xã hội.
Phân tích rõ hơn, TS. Cao Xuân Thu Vân - Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho rằng, kinh tế tập thể không đơn thuần hỗ trợ kinh tế tư nhân ổn định vùng nguyên liệu, nhân lực và logistics; nó còn góp phần lan tỏa mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến, bảo đảm chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Ngược lại, doanh nghiệp tư nhân còn tạo điều kiện để các Hợp tác xã tiếp cận công nghệ, tiêu chuẩn quốc tế, mở rộng thương hiệu và thị trường. Mối quan hệ tương hỗ này nếu được phát huy mạnh mẽ sẽ tạo ra động lực tăng trưởng kép trong nền kinh tế.
Theo TS. Cao Xuân Thu Vân, tính đến giữa năm 2025, cả nước có hơn 34.800 Hợp tác xã, gần 6,1 triệu thành viên và khoảng 2,7 triệu lao động thường xuyên. Trong đó, khu vực nông nghiệp chiếm 66% với nhiều mô hình Hợp tác xã kiểu mới liên kết sản xuất theo chuỗi, ứng dụng công nghệ cao, đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và tham gia chương trình OCOP. Những mô hình này đã góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và đóng góp tích cực vào phát triển cộng đồng.
Đáng chú ý, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã thực hiện tốt vai trò đại diện, hỗ trợ và kết nối giữa các Hợp tác xã với Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Hệ thống này tham gia xây dựng Luật Hợp tác xã năm 2023 và các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, mở rộng không gian phát triển và khơi thông nguồn lực cho kinh tế tập thể.
Cùng với đó, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam triển khai ba đề án trọng điểm theo Nghị quyết 09/NQ-CP, trong đó có Đề án tuyên truyền nâng cao nhận thức về kinh tế tập thể và Đề án củng cố Quỹ Hỗ trợ phát triển Hợp tác xã. Những đề án này tạo chuyển biến nội lực, giúp các Hợp tác xã chuyển từ sản xuất tự phát sang tổ chức sản xuất có chiến lược, liên kết và tiêu chuẩn hóa.
Tuy nhiên, TS. Cao Xuân Thu Vân cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, liên kết giữa Hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa bền vững. Nhiều ngành và địa phương còn thiếu mô hình liên kết hiệu quả; năng lực quản trị và chuyển đổi số của nhiều Hợp tác xã còn hạn chế; thương hiệu sản phẩm chưa mạnh; khả năng tiếp cận vốn còn khó khăn. Đây là những rào cản cần được tháo gỡ để Hợp tác xã phát huy tốt vai trò trong phát triển kinh tế.
Liên kết tạo giá trị bền vững giữa hai khu vực kinh tế
Để kết nối và thúc đẩy hợp tác hiệu quả giữa kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể, TS. Cao Xuân Thu Vân cho rằng, trước tiên cần hoàn thiện cơ chế và chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư nhân liên kết với Hợp tác xã theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. Điều này cần được hỗ trợ bởi hệ thống ưu đãi tín dụng, tiếp cận đất đai thuận lợi, thúc đẩy ứng dụng công nghệ và triển khai chuyển đổi số. Đồng thời, cần xây dựng các chương trình hỗ trợ chuyên biệt nhằm nâng cao năng lực quản trị và tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất cho các Hợp tác xã.
Việc đẩy mạnh chuyển đổi số đóng vai trò then chốt giúp các Hợp tác xã nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Do đó, cần xây dựng các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật và nền tảng số dùng chung phục vụ quản trị sản xuất, theo dõi chất lượng, truy xuất nguồn gốc và kết nối thương mại điện tử. Góp phần minh bạch hóa quy trình, tối ưu chi phí, đồng thời mở ra cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị trong và ngoài nước.
Cùng với đó, cần triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân theo hướng quản trị hiện đại, khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh xanh và kinh tế tuần hoàn. Đặc biệt, việc thu hút lực lượng trẻ có trình độ, tư duy công nghệ sẽ là yếu tố tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự chuyển đổi toàn diện trong mô hình tổ chức và vận hành Hợp tác xã.
Một nhiệm vụ quan trọng khác là mở rộng Quỹ Hỗ trợ phát triển Hợp tác xã và xây dựng cơ chế tín dụng ưu đãi đối với doanh nghiệp tư nhân khi hợp tác liên kết với Hợp tác xã. Theo TS. Cao Xuân Thu Vân, việc tăng cường nguồn lực tài chính sẽ tạo điều kiện để các Hợp tác xã đầu tư trang thiết bị, phát triển vùng nguyên liệu tập trung, chuẩn hóa quy trình sản xuất và nâng cao giá trị sản phẩm. Qua đó, các Hợp tác xã có thể nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
Đồng thời, cấp ủy và chính quyền địa phương cần đưa nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân vào chương trình công tác thường xuyên, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Việc tăng cường chỉ đạo, theo dõi và tháo gỡ kịp thời khó khăn sẽ giúp các Hợp tác xã phát triển thực chất và bền vững. Sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và Hợp tác xã tạo thành mạng lưới liên kết thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và nâng cao đời sống nhân dân.
“Trong giai đoạn mới, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tiếp tục giữ vai trò “cầu nối tin cậy” giữa kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Với định hướng đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động, tăng cường năng lực hỗ trợ, tư vấn và kết nối thị trường, Liên minh Hợp tác xã sẽ góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập sâu rộng. Góp phần phát triển thịnh vượng, bền vững, bảo đảm hài hòa lợi ích cộng đồng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân trên cả nước”, TS. Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.

















