Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn "nước rút" cuối năm 2025 với nhiều tín hiệu phục hồi tích cực, song nhiệm vụ giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát vẫn là ưu tiên hàng đầu. Bất chấp những áp lực lớn từ diễn biến thị trường quốc tế và thiên tai trong nước, Việt Nam đã kiểm soát lạm phát trong giới hạn mục tiêu Quốc hội đề ra trong 10 tháng năm 2025. Để vượt qua "phép thử" cuối năm và tạo tiền đề vững chắc cho năm 2026, sự điều hành linh hoạt và phối hợp chính sách nhịp nhàng là yếu tố then chốt.
Theo báo cáo gửi Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2025 của Bộ Tài chính, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 tăng 0,20% so với tháng trước, 2,82% so với tháng 12/2024 và 3,25% so với cùng kỳ. Bình quân 10 tháng, CPI tăng 3,27% trong khi lạm phát cơ bản chỉ tăng 3,20%, cho thấy áp lực giá đến chủ yếu từ các yếu tố ngoại sinh như thực phẩm và năng lượng cũng như các yếu tố chính sách như y tế và giáo dục, không đến từ cầu tiêu dùng tổng thể.
Phân tích sâu hơn, báo cáo của Bộ Tài chính chỉ ra 3 động cơ chính tạo nên áp lực lạm phát.
Xét theo từng nhóm hàng hóa, theo báo cáo của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), các nhóm có áp lực tăng giá cao trên 0,40% bao gồm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,43% chủ yếu từ vàng trang sức và dịch vụ cá nhân, giáo dục tăng 0,51% và thực phẩm cùng ăn uống tăng 0,59% chịu tác động trực tiếp từ thiên tai.
Các nhóm có áp lực tăng giá trung bình từ 0,10% đến 0,40% gồm thiết bị gia đình tăng 0,20%, may mặc tăng 0,18%, và đồ uống cùng thuốc lá tăng 0,12%, phản ánh áp lực chi phí sản xuất và nhu cầu tiêu dùng theo mùa khi thời tiết chuyển lạnh.
Trong khi đó, nhóm giao thông lại giảm 0,81%, làm giảm 0,08 điểm % vào CPI chung do xăng giảm 2,48%, dầu diesel giảm 0,35% theo giá dầu thế giới và vận tải hàng không giảm 5,46%. Gas giảm 1,62% và điện giảm 1,74% theo mùa vụ và giá thế giới, tạo ra lực đối trọng quan trọng cho các nhóm hàng tăng giá. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa Liên Bộ Công Thương – Tài chính trong điều hành giá xăng dầu và điện đã góp phần kiềm chế lan tỏa lạm phát sang các nhóm hàng khác.
Tuy nhiên, tỷ giá và vàng vẫn là “mạch ngầm” đáng lưu ý. Có thời điểm, USD/VND vượt mốc 25.400 đồng/USD do chênh lệch lãi suất quốc tế. TS. Nguyễn Đức Độ - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính (Học viện Tài chính) nhận định, nếu tỷ giá tăng kéo dài, chi phí nhập khẩu và giá hàng hóa trong nước sẽ chịu áp lực lớn.
Theo Bộ Tài chính, giá vàng tăng 44,02% bình quân 10 tháng, được thúc đẩy bởi 4 yếu tố chính: chính sách tiền tệ nới lỏng toàn cầu, rủi ro địa chính trị, đa dạng hóa dự trữ của các ngân hàng trung ương, và hoạt động đầu cơ gia tăng.
Trong khi đó, USD có diễn biến khác, với chỉ số trong nước tăng 3,98% bình quân 10 tháng, thấp hơn nhiều so với vàng, phản ánh chính sách tỷ giá ổn định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Đặc biệt, sự biến động ngược chiều giữa USD trong nước giảm 0,34% tháng 10 và USD quốc tế tăng 1,02% cho thấy sự can thiệp điều tiết của ngân hàng trung ương nhằm ổn định thị trường ngoại tệ.
Việc giữ vững mặt bằng giá cuối năm đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và quản lý giá. Bộ Tài chính, với vai trò cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo điều hành giá, đã kiên định bám sát các nguyên tắc điều hành giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo Luật Giá và các văn bản hướng dẫn, đồng thời thực hiện các giải pháp tài khóa hỗ trợ sức mua và giảm chi phí sản xuất.
Đối với công tác quản lý giá, Bộ Tài chính xác định nhiệm vụ trọng tâm là kiểm soát chặt chẽ các nhóm hàng Nhà nước quản lý giá, nhất là dịch vụ công, điện, nước, y tế, giáo dục. Việc điều chỉnh giá được thực hiện theo nguyên tắc thị trường nhưng có lộ trình, thời điểm phù hợp, bảo đảm không tạo cú sốc lên CPI.
Theo PGS.TS. Ngô Trí Long - chuyên gia kinh tế, việc công khai sớm lộ trình điều chỉnh giá và chia nhỏ tác động đã giúp hạn chế cú sốc tâm lý. Đồng thời, việc tăng cường dự báo cung – cầu, chuẩn bị nguồn hàng, điểm bán bình ổn giá, sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu linh hoạt… đã giúp giảm biên độ biến động, hạn chế tác động lan tỏa vào thị trường trong nước.
Hơn nữa, thực tế cho thấy, Bộ Tài chính đã nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền và triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ qua chính sách thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất. Nổi bật là việc giảm 2% thuế giá trị gia tăng trong hai năm 2025-2026, kết hợp mở rộng đối tượng áp dụng, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, mỡ nhờn, ưu đãi lệ phí trước bạ cho ô tô điện chạy pin, kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Đồng thời, gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất năm 2025…
Cùng với đó, việc xuất cấp kịp thời hàng dự trữ quốc gia, đặc biệt là gạo cứu đói dịp giáp hạt và hỗ trợ thiên tai, đã giúp bảo đảm an sinh xã hội và ổn định thị trường hàng thiết yếu ở các địa phương chịu ảnh hưởng của bão lũ. Tính đến 30/10/2025, Chính phủ đã hỗ trợ gần 12,3 nghìn tấn gạo cho người dân.
Chính sách tiền tệ được điều hành theo hướng nới lỏng có kiểm soát, để vừa thúc đẩy tín dụng, vừa hỗ trợ tăng trưởng. NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa với chính sách tài khóa. Trong bối cảnh tỷ giá chịu áp lực, NHNN đã kịp thời can thiệp bằng việc bán ngoại tệ kỳ hạn 180 ngày có hủy ngang cho các ngân hàng thương mại, đồng thời hút ròng qua kênh thị trường mở (OMO) để giảm chênh lệch lãi suất giữa VND và USD. Sự ổn định này giúp giảm tâm lý găm giữ ngoại tệ, hạn chế truyền dẫn lạm phát nhập khẩu và hỗ trợ duy trì niềm tin của nhà đầu tư.
Theo báo cáo vĩ mô mới đây của Công ty Chứng khoán VNDirect, nguồn cung USD được kỳ vọng sẽ cải thiện về cuối năm, nhờ dòng vốn FDI giải ngân mạnh mẽ, thặng dư thương mại mở rộng và kiều hối gia tăng theo mùa. Mặt bằng lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại đến ngày 10/10/2025 ở mức 6,55%/năm, giảm 0,38%/năm so với cuối năm 2024, hướng tín dụng vào sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên.
TS. Nguyễn Đức Độ nhấn mạnh, điểm cốt lõi của điều hành năm nay là sự phối hợp kịp thời và hài hoà giữa hai chính sách chủ chốt là tài khóa và tiền tệ, cùng hướng tới mục tiêu chung ổn định vĩ mô, giữ kỳ vọng lạm phát ở mức thấp, đồng thời bảo đảm dư địa cho tăng trưởng.
Ở góc độ xã hội, thu nhập và việc làm tiếp tục được cải thiện là nền tảng quan trọng để giữ vững sức mua và ổn định tâm lý tiêu dùng. Theo kết quả sơ bộ Điều tra lao động việc làm của Cục Thống kê, 96,1% hộ gia đình đánh giá thu nhập tháng 10/2025 không giảm so với cùng kỳ, trong khi chỉ 3,9% cho biết có giảm.
Kiểm soát lạm phát cuối năm 2025 không chỉ là một bài toán ngắn hạn mà còn là nền tảng chiến lược chuẩn bị cho chu kỳ phát triển mới của giai đoạn 2026 - 2030. Mục tiêu kiểm soát lạm phát trung bình năm 2025 ở mức 4,5 - 5% theo chỉ đạo của Quốc hội và Chính phủ gần như chắc chắn đạt được.
Các tổ chức quốc tế cũng có cái nhìn tích cực, Standard Chartered dự báo lạm phát năm 2026 của Việt Nam ở mức 3,7%, thấp hơn mục tiêu 4,5% của Chính phủ, đi kèm với dự báo tăng trưởng GDP được nâng lên 7,2%. HSBC cũng dự báo lạm phát ở mức 3,4%, đồng thời nâng mạnh dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2025 từ 6,6% lên 7,9% và năm 2026 từ 5,8% lên 6,7% - mức cao nhất trong số các nền kinh tế ASEAN.
Vừa qua, với sự đồng thuận cao, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026. Trong đó, về mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, mục tiêu tăng trưởng năm 2026 phấn đấu từ 10% trở lên gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4,5%.
Cùng với đó là phải tiếp tục điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, tăng cường quản lý thu, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời; điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp, bảo đảm khả năng tiếp cận vốn với chi phí hợp lý…
Điều này đặt ra yêu cầu các cơ quan điều hành cần tiếp tục thận trọng trước những yếu tố có thể tạo áp lực giá trong năm 2026, nổi bật là chính sách tiền lương và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ công.
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 293/2025/NĐ-CP, nâng mức lương tối thiểu vùng bình quân 7,2% từ ngày 1/1/2026. Đây là chủ trương đúng đắn nhằm cải thiện đời sống người lao động. Tuy nhiên, chính sách này có thể tạo áp lực lên lạm phát theo độ trễ, nhất là nguy cơ xuất hiện hiệu ứng "té nước theo mưa" – tức là giá hàng hóa, dịch vụ bị đẩy tăng theo kỳ vọng thu nhập, dù lương chưa tăng.
Về vấn đề này, PGS.TS. Ngô Trí Long khuyến nghị, cần có lộ trình tăng hợp lý, gắn với tăng năng suất, đồng thời phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa – tiền tệ – giá cả để tránh vòng xoáy “giá – lương”. Việc điều hành giá các mặt hàng thiết yếu đúng thời điểm và truyền thông minh bạch cũng rất quan trọng nhằm ổn định kỳ vọng thị trường".
TS. Nguyễn Đức Độ cũng đề nghị, công tác quản lý, điều hành giá những tháng cuối năm cần cân nhắc lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý với mức độ phù hợp nhằm tạo tiền đề cho việc kiểm soát lạm phát trong năm 2026 cũng như không gây sốc cho các hộ gia đình.
Công tác dự báo, cập nhật kịch bản lạm phát và phương án điều chỉnh giá dịch vụ công cần được thực hiện đồng bộ để kịp thời điều chỉnh giá theo diễn biến thị trường, bảo đảm kiểm soát lạm phát. Các bộ, ngành, địa phương cần có trách nhiệm theo dõi sát cung cầu, giá cả các mặt hàng thuộc lĩnh vực quản lý, có phương án ứng phó khi nhu cầu tăng cao với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, vật liệu xây dựng, lương thực, thực phẩm, vật tư nông nghiệp, dịch vụ vận tải để tránh thiếu hàng, tăng giá đột biến.
Ngoài ra, công tác truyền thông chính sách phải được chú trọng, bảo đảm minh bạch, kịp thời, qua đó ổn định tâm lý người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Nhìn chung, Việt Nam đang có đủ cơ sở để kiểm soát lạm phát trong giới hạn mục tiêu. Sự thận trọng, linh hoạt và phối hợp chính sách nhịp nhàng là chìa khóa để giữ ổn định giá cả, củng cố niềm tin thị trường và duy trì tăng trưởng cân bằng, bền vững trong năm 2026. Kiểm soát lạm phát không phải là giữ giá tuyệt đối, mà là giữ biên độ biến động trong tầm kiểm soát và củng cố niềm tin thị trường, giúp nền kinh tế "về đích" bền vững.
10:55 15/11/2025