Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng nhìn từ lăng kính kinh tế – tài chính: Kiến trúc thực thi và thước đo kết quả
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng với các giải pháp đồng bộ và khả thi sẽ hiện thực hóa việc biến định hướng lớn thành kết quả đo lường được, qua đó củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào một giai đoạn phát triển của đất nước nhanh, mạnh và bền vững, bao trùm và cạnh tranh toàn cầu.

Với các giải pháp đồng bộ và khả thi, dự thảo Văn kiện Đại hội XIV không chỉ định hình tầm nhìn phát triển đến năm 2030, tầm nhìn 2045, mà còn mở ra cơ hội xây dựng nền kinh tế Việt Nam hiện đại, ổn định, minh bạch và có khả năng cạnh tranh toàn cầu trong giai đoạn hội nhập mới.
Từ góc nhìn kinh tế – tài chính, tác giả đề xuất 10 nhóm khuyến nghị trọng tâm: chuẩn hóa hệ chỉ tiêu theo nguyên tắc đầu ra – kết quả – tác động; thiết lập đơn vị điều phối thực thi ưu tiên cấp quốc gia; phát triển nhà đầu tư dài hạn và thị trường vốn xanh; củng cố tài chính công theo chu kỳ; tăng kỷ luật thực thi đầu tư công; thúc đẩy kỹ năng số, tài chính khí hậu và đô thị đáng sống; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu “kiến trúc thực thi” để biến mục tiêu thành kết quả cụ thể.
Đây cũng là các đề xuất gợi ý mang tính thực thi cho cơ quan lập chính sách và điều hành kinh tế – tài chính, nhằm biến định hướng lớn thành kết quả đo lường được, qua đó củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào một giai đoạn phát triển bền vững, bao trùm và cạnh tranh toàn cầu.
Kiến trúc thực thi: Từ định hướng tới kết quả
Để “khóa” các mục tiêu thành kết quả, tác giả đề xuất 4 cấu phần bao gồm:
(i) Đơn vị điều phối thực thi ưu tiên cấp Chính phủ. Thiết kế và theo dõi các dự án liên ngành: hạ tầng – năng lượng – số hóa – nhà ở xã hội. Cập nhật bảng điều khiển thời gian thực (real-time dashboard) từ thuế, hải quan, đầu tư công, giáo dục, y tế… để dự báo tức thời tăng trưởng, việc làm, lạm phát, tiến độ giải ngân.
(ii) Hệ chỉ tiêu đo lường theo nguyên tắc “đầu ra – kết quả – tác động”. Gắn rõ cơ quan chủ trì, nguồn đo, tần suất cập nhật, ngưỡng cảnh báo. Công khai “đèn giao thông” (xanh – vàng – đỏ) cho từng mục tiêu để tạo áp lực thực thi và học tập ngang hàng giữa các địa phương, bộ ngành.
(iii) Cơ chế phối hợp ngân sách và khen thưởng theo kết quả. Ký thỏa thuận thành tích giữa trung ương – địa phương cho các dự án liên vùng, kèm cơ chế thưởng ngân sách nếu vượt mục tiêu; đồng thời áp dụng “cắt – hoán đổi” nguồn lực với các dự án chậm hoặc hiệu quả thấp.
(iv) Chu trình đánh giá độc lập định kỳ. Thực hiện đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ bởi tổ chức độc lập, công bố công khai và tích hợp phản hồi người dân – doanh nghiệp – chuyên gia để hiệu chỉnh chính sách.
10 nhóm giải pháp khuyến nghị hoàn thiện trọng tâm
Thứ nhất, chuẩn hóa bộ chỉ tiêu cốt lõi năng suất lao động tăng bình quân, đóng góp năng suất các nhân tố tổng hợp, tỷ trọng kinh tế số trong tổng sản phẩm trong nước, tỷ lệ đô thị hóa chất lượng (vận tải công cộng, nhà ở vừa túi tiền), cường độ phát thải theo tổng sản phẩm trong nước.
Thứ hai, xếp thứ tự ưu tiên cải cách thể chế theo ba lớp giai đoạn, trong đó, Giai đoạn 1 là từ năm 2026–2027: tập trung đơn giản hóa thủ tục – giấy phép; rút 50% thời gian phê duyệt dự án hạ tầng, công nghiệp, năng lượng; hoàn chỉnh định danh số và chuẩn liên thông dữ liệu; Giai đoạn 2 từ năm 2028–2029: đẩy mạnh hoàn thiện khung thị trường vốn, đối tác công tư; thí điểm cơ chế định giá carbon có kiểm soát; Giai đoạn 3 là năm 2030: hoàn thiện luật khung cho kinh tế số, dữ liệu, cạnh tranh số; mở rộng thị trường carbon phù hợp thông lệ quốc tế.
Thứ ba, phát triển nhà đầu tư dài hạn ưu đãi thuế – phí có điều kiện cho quỹ hưu trí, bảo hiểm; khuyến khích trái phiếu cơ sở hạ tầng và trái phiếu xanh theo chuẩn quốc tế.
Thứ tư, nâng chuẩn công bố thông tin và giám sát rủi ro nền tảng dữ liệu thị trường vốn hợp nhất, cảnh báo sớm rủi ro tập trung; bắt buộc xếp hạng tín nhiệm với phát hành quy mô lớn.
Thứ năm, tài chính khí hậu khả thi cho quỹ bảo lãnh chuyển đổi năng lượng, hợp đồng mua bán điện dài hạn, chuẩn hóa tín chỉ carbon và cơ chế hạch toán.
Thứ sáu, xây dựng chương trình kỹ năng số quốc gia nhằm mục tiêu tái đào tạo kỹ năng hàng năm cho lao động doanh nghiệp nhỏ và vừa; vận hành theo cơ chế đồng đầu tư Nhà nước – doanh nghiệp – cơ sở đào tạo; công nhận kỹ năng theo khung khu vực.
Thứ bảy, xây dựng thước đo bộ chỉ số đô thị đáng sống với các chỉ số toàn diện về hạ tầng công cộng, mật độ không gian xanh, chất lượng không khí, khả năng chi trả nhà ở, thời gian di chuyển; gắn với cơ chế tài chính đô thị và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương.
Thứ tám, thực hiện đối ngoại kinh tế theo cụm mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài công nghệ cao – trung hòa carbon; phát triển trung tâm dịch vụ số xuyên biên giới; thí điểm hành lang dữ liệu tin cậy với đối tác chiến lược.
Thứ chín, tăng kỷ luật thực thi đầu tư công định mức chi phí – lợi ích, công bố bảng xếp hạng tiến độ theo quý; cho phép điều chuyển vốn linh hoạt sang dự án hiệu quả cao.
Thứ mười, thể chế hóa quy trình tham vấn thường xuyên duy trì chuyên mục góp ý trực tuyến, tọa đàm chính sách theo chủ đề, phản hồi công khai cách tiếp thu – chỉnh lý văn kiện và kế hoạch hành động.
Đề xuất Bộ chỉ tiêu theo dõi khuyến nghị
Để đo lường và lượng hóa chất lượng thực hiện các nhóm giải pháp, tác giả đề xuất bộ chỉ tiêu theo dõi khuyến nghị thực hiện đo hằng năm, công bố công khai trên bảng điều khiển số. Cụ thể bao gồm các chỉ số sau:
Tăng trưởng chất lượng: Năng suất lao động xã hội (giá so sánh); đóng góp năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng; tỷ trọng công nghiệp chế biến – chế tạo công nghệ trung bình – cao.
Kinh tế số – dữ liệu: Tỷ trọng kinh tế số trong tổng sản phẩm trong nước; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ cao được sử dụng thực chất; tỷ lệ dân số có định danh điện tử mức 2; mức độ mở dữ liệu nhà nước.
Ổn định vĩ mô – thị trường vốn: Lạm phát cơ bản trung bình; chênh lệch lãi suất thực; tỷ lệ nợ công/tổng sản phẩm trong nước; quy mô trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu xanh; tỷ trọng nhà đầu tư dài hạn trong thị trường vốn.
Phát triển xanh – bao trùm: Cường độ phát thải trên một đơn vị tổng sản phẩm trong nước; tỷ trọng năng lượng tái tạo trong công suất; tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ hộ gia đình tiếp cận dịch vụ cơ bản; hệ số Gini điều chỉnh.
Đô thị hóa và chất lượng sống: Tỷ lệ sử dụng vận tải công cộng, diện tích không gian xanh bình quân đầu người, chỉ số chất lượng không khí trung bình đô thị, tỷ lệ nhà ở giá vừa túi tiền trên tổng nguồn cung mới.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã xác định đúng những “đường ray” chiến lược cho một thập niên chuyển đổi sâu rộng: thể chế hiện đại, kinh tế số – dữ liệu, phát triển xanh và bao trùm, hội nhập chủ động. Thách thức lớn nhất không còn là "nói gì", mà là "làm thế nào": thiết kế kiến trúc thực thi mạnh, đo lường minh bạch, kỷ luật chính sách nhất quán.
Khi các mục tiêu được “neo” bằng thước đo, trách nhiệm giải trình và phân bổ nguồn lực theo kết quả, Việt Nam có thể mở ra chu kỳ tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn, rủi ro thấp hơn và phúc lợi xã hội được cải thiện thực chất.

















