Củng cố kỷ luật tài khóa, huy động hiệu quả nguồn lực cho tăng trưởng
Củng cố kỷ luật và kỷ cương tài khóa, quản lý chặt chẽ thu, chi ngân sách nhà nước là một trong những giải pháp then chốt giúp thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Duy trì đà tăng trưởng trong biến động toàn cầu
Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động khó lường, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả nổi bật nhờ nỗ lực của toàn hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Tăng trưởng kinh tế năm 2025 ước đạt trên 8%, trong khi bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 6,3%/năm, cao hơn mức 6,2% của nhiệm kỳ trước.
Giá cả hàng hóa và dịch vụ được duy trì ổn định, lạm phát dưới mục tiêu hằng năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài và bội chi ngân sách nhà nước đều được kiểm soát tốt, thấp hơn nhiều giới hạn cho phép.
Thu ngân sách nhà nước đạt kết quả nổi bật và là một điểm sáng. Năm 2025, thu ngân sách ước đạt gần 2,4 triệu tỷ đồng, vượt 21,5% so với dự toán. Tính chung giai đoạn 2021-2025, thu ngân sách nhà nước đạt khoảng 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,6 lần nhiệm kỳ 2016-2020, dù đã miễn, giảm và gia hạn khoảng 1,1 triệu tỷ đồng để hỗ trợ sản xuất kinh doanh.
Nhờ tăng thu và tiết kiệm chi khoảng 1,5 triệu tỷ đồng, nguồn lực được bổ sung cho đầu tư phát triển, quốc phòng, an ninh, khoa học công nghệ, cải cách tiền lương, an sinh xã hội, xóa nhà tạm, nhà dột nát và xây dựng trường học vùng biên giới... Tỷ lệ chi đầu tư phát triển đã tăng lên 32% tổng chi ngân sách nhà nước, bảo đảm nguồn lực cho các công trình hạ tầng chiến lược, trọng điểm.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 32-33% GDP, trong đó khu vực tư nhân và doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 65%. Thu hút FDI cũng được cải thiện qua từng năm, đóng góp khoảng 16% tổng vốn đầu tư, đưa Việt Nam vào nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới. Khung thể chế và hạ tầng phát triển các thị trường vốn tiếp tục được hoàn thiện, với quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán đến năm 2024 ước đạt khoảng 79,2% GDP.
Chính sách tài khoá có trọng tâm, trọng điểm
Thời gian tới, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những điều chỉnh lớn, mang tính thời đại; nhiều vấn đề mới đặt ra đối với sự phát triển của các quốc gia, khu vực. Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 được thông qua mới đây đã nhấn mạnh cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác. Chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, trong khi chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, điều hành lãi suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn với chi phí hợp lý. Dòng vốn tín dụng hướng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và động lực tăng trưởng, đồng thời kiểm soát rủi ro tín dụng, quản lý hiệu quả thị trường vàng.
Nghị quyết cũng nêu rõ yêu cầu tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính ngân sách, quản lý chặt chẽ thu ngân sách nhà nước, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, mở rộng cơ sở thu và chống thất thu thuế, nhất là từ thương mại điện tử, dịch vụ ăn uống, bán lẻ. Việc triệt để tiết kiệm chi, cắt giảm các khoản chi không cần thiết nhằm tăng chi đầu tư công và an sinh xã hội cũng được nhấn mạnh.
Dư địa nợ công và bội chi được tận dụng để huy động vốn, trong đó có phát hành trái phiếu Chính phủ cho các dự án trọng điểm. Thể chế và pháp luật về đầu tư công tiếp tục hoàn thiện để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ngay từ đầu năm 2026, đặc biệt đối với các dự án quan trọng quốc gia và các Chương trình mục tiêu quốc gia. Phát triển thị trường trong nước, du lịch, xúc tiến thương mại, đa dạng hóa xuất khẩu và ký kết các hiệp định FTA mới thúc đẩy mạnh mẽ.
Chính phủ nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý thu chi ngân sách nhà nước, tăng chi đầu tư phát triển trọng tâm để hoàn thiện kết cấu hạ tầng chiến lược, thực hiện các đột phá chiến lược, đồng thời bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được ưu tiên với 3% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm. Mục tiêu đến năm 2030 là kinh tế số chiếm tối thiểu 30% GDP, đưa Việt Nam vào nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á về năng lực cạnh tranh số và nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về phát triển Chính phủ điện tử.
Thị trường vốn, chứng khoán phát triển theo hướng an toàn, minh bạch, hiệu quả và bền vững, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng. Nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức trung gian thị trường, phát triển đa dạng các công cụ tài chính, quỹ đầu tư trong nước, đồng thời khai thác cơ hội từ nâng hạng thị trường chứng khoán để thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Hành lang pháp lý tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho các ngành, lĩnh vực mới, đặc biệt là các xu thế toàn cầu về tài sản số, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Cũng theo Nghị quyết, việc thu hút FDI thực hiện có chọn lọc, ưu tiên các dự án quy mô lớn, hiện đại, thân thiện với môi trường, có tác động lan tỏa và kết nối chuỗi sản xuất toàn cầu. Chuyển giao công nghệ và kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI cần tiếp tục thúc đẩy, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời tăng cường liên kết, khai thác hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu...
Với những định hướng và giải pháp nêu trên, Việt Nam đang tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng bền vững trong năm 2026 và những năm tiếp theo. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác cùng với hiệu quả huy động nguồn lực từ ngân sách, đầu tư công, FDI và thị trường vốn sẽ giúp nền kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện, nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm an sinh xã hội và ứng phó linh hoạt với các biến động quốc tế.
















