Chính sách Bảo hiểm y tế: Nguồn lực bảo đảm cho cơ chế tài chính y tế toàn dân

Bài 3: Nguồn tài chính bảo đảm an sinh bền vững với từng người dân

Minh Đức

Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm nguồn lực cho hệ thống cơ sở y tế của mỗi quốc gia, Bảo hiểm y tế (BHYT) còn là cơ chế tài chính thiết yếu với an sinh của từng người dân. Nhìn từ góc độ từng hộ gia đình, đây cũng là chính sách nền tảng cho sự phát triển kinh tế và nhất là thoát nghèo, giảm nghèo bền vững.

Chính sách BHYT giúp giảm chi tỷ lệ chi từ tiền túi của người dân với các dịch vụ khám, chữa bệnh.
Chính sách BHYT giúp giảm chi tỷ lệ chi từ tiền túi của người dân với các dịch vụ khám, chữa bệnh.

Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường, các loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đều được trao đổi theo quy luật cung - cầu; cơ chế giá được vận hành theo nguyên tắc chung là “thuận mua - vừa bán”. Tuy nhiên, với các loại dịch vụ khám, chữa bệnh, thuốc, vật tư y tế lại có sự khác biệt rất lớn. Nhu cầu của người sử dụng, tức là người bệnh, gần như mang tính bắt buộc; buộc phải mua, buộc phải sử dụng. Trong quá trình sử dụng, quyền “thương thảo về giá” của người bệnh rất hạn chế, nếu như không muốn nói là không có; chỉ đơn giản là mong muốn được sử dụng loại dịch vụ, thuốc, vật tư y tế tốt nhất.

Thực tế này đã khiến chi phí y tế luôn là bài toán khó với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cơ cấu bệnh tật ngày càng phức tạp, sự ra đời của nhiều loại máy móc, thiết bị hiện đại và đặc biệt là ngày càng có nhiều loại thuốc đắt tiền…

Chỉ tính riêng thuốc điều trị ung thư, trong 20 năm qua, mức giá trung bình trên toàn cầu đã tăng từ 12.000 USD lên hơn 120.000 USD mỗi năm. Một số liệu pháp điều trị tiên tiến có chi phí lên tới 500.000 USD, tương đương 12-13 tỷ đồng cho một liệu trình.

Các yếu tố cộng hưởng đã luôn khiến cho tổng chi cho y tế luôn tăng cao. Tại Việt Nam, chi tiêu y tế cũng đã tăng lên nhanh chóng; từ 17,4 tỷ USD năm 2019 lên 25,6 tỷ USD năm 2023, dự kiến đạt 34,1 tỷ USD vào năm 2028. Trong đó, chi phí thuốc chiếm tới 25-28% tổng chi y tế, tương đương 6,6 tỷ USD năm 2023, và có thể tăng lên 8,6 tỷ USD vào 2028.

Nhìn từ góc độ tài chính cá nhân, hộ gia đình, chi phí y tế cũng luôn là “gánh nặng” rất lớn, nhất là với các hộ thuộc diện nghèo/cận nghèo. Tai nạn, ốm đau, bệnh tật có thể đến với bất kỳ ai, viện phí có thể dễ dàng “tiêu hết” mọi nguồn tài chính đã tích luỹ được trước đó.

Trong bối cảnh đó, cơ chế tài chính BHYT là lời giải hiệu quả hơn cả. Có BHYT, chi phí khám, chữa bệnh của người dân sẽ được giảm ở mức đáng kể và quan trọng hơn là vẫn được đảm bảo tiếp cận đầy đủ dịch vụ y tế, thuốc. Thực tiễn qua hơn 30 năm triển khai chính sách BHYT ở nước ta cũng đã chứng minh rất cụ thể qua những số liệu thống kê.

Vào đầu những năm 1990, chi phí y tế từ tiền túi của người dân chiếm tới hơn 70% tổng chi tiêu cho y tế; nhờ có BHYT, tỷ lệ này đã được giảm khá đáng kể; còn khoảng 40%. Hiện nay, hằng năm, bình quân Quỹ BHYT chi trả 87-89% tổng chi phí khám, chữa bệnh BHYT, người tham gia BHYT có trách nhiệm cùng chi trả 11-13%.

Theo Niên giám thống kê y tế, số lượt KCB BHYT và số chi BHYT cũng liên tục tăng cao. Năm 2009, có khoảng 9,6 triệu lượt KCB BHYT, tổng chi BHYT là trên 10.114 tỷ đồng; năm 2024 có 183,6 triệu lượt, tăng 9,7 triệu lượt (5,6%) so với năm 2023; ước chi khoảng 143 nghìn tỷ đồng.

Còn theo thống kê của BHXH Việt Nam, tính từ năm 2024 đến hết tháng 5/2025, đã ghi nhận 10 bệnh nhân được BHYT chi trả từ 3 - 4,8 tỷ đồng. Trường hợp được chi trả lớn nhất là bệnh nhân có mã thẻ TE13535212XXXXX, sinh năm 2019 (thuộc tỉnh Hà Nam cũ, nay là tỉnh Ninh Bình), với chẩn đoán bệnh chính là “Bệnh tích luỹ glycogen”. Nếu tính từ năm 2020 đến hết tháng 8/2025, hệ thống của cơ quan BHXH ghi nhận 41.188 trường hợp được quỹ BHYT chi trả chi phí khám chữa bệnh từ 500 triệu đồng đến hơn 2 tỷ đồng, với tổng số tiền chi trả hơn 33.000 tỷ đồng.

Theo đánh giá của BHXH Việt Nam, bình quân mỗi năm có trên 180 triệu lượt khám, chữa bệnh người được quỹ BHYT thanh toán. Cùng với đó là hàng nghìn dịch vụ kỹ thuật y tế thực hiện tại tất cả các tuyến, trên 1.000 hoạt chất, sinh phẩm tân dược, hàng trăm vị thuốc đông y, thuốc từ dược liệu, trên 300 nhóm vật tư y tế với hàng chục nghìn vật tư y tế cụ thể. Đặc biệt, trong đó có nhiều dịch vụ kỹ thuật cao như can thiệp tim mạch, phẫu thuật tim mạch, phẫu thuật nội soi, MRI, CT, PET-CT, thuốc, vật tư y tế đắt tiền như thuốc ung thư, thuốc hiếm, stent, bộ tim phổi nhân tạo Ecmo, máy tạo nhịp…

Nếu so sánh tương quan giữa mức đóng BHYT của Việt Nam hiện nay, có thể thấy chênh lệch rất lớn; đóng với số tiền hạn chế nhưng mức hưởng gần như không có giới hạn. Rõ ràng cơ chế BHYT đã và đang là nguồn lực tài chính quan trọng để bảo đảm an sinh cho hàng chục triệu người dân mỗi năm. Nhờ BHYT, số chi từ tiền túi của người dân cho chăm sóc sức khoẻ được giảm xuống, bảo đảm tài chính bền vững cho vòng đời của từng cá nhân và từng hộ gia đình trên khắp cả nước.

 

Chính sách BHYT của nước ta đã được xây dựng để đảm bảo đảm an sinh cho hầu hết các nhóm người dân. Các nhóm yếu thế như nghèo, người khuyết tật hoặc nhóm người có công, gia đình chính sách… đều được Ngân sách nhà nước cấp thẻ BHYT.

Chính sách BHYT cũng gần như theo trọn vòng đời của mỗi công dân. Kể từ khi được sinh ra - được cấp thẻ BHYT miễn phí đến 6 tuổi; đến khi về già - tuỳ từng trường hợp cụ thể, được hỗ trợ đóng hoặc cấp thẻ BHYT miễn phí (diện hưu trí bảo hiểm xã hội hoặc hưu trí xã hội).